Các nhà khảo cổ học ở Thung lũng Swat phía tây bắc Pakistan đã khai quật được một ngôi chùa Phật giáo khoảng 2.000 năm tuổi, đây có thể được coi là một trong những ngôi chùa lâu đời nhất ở quốc gia này, tờ Hindustan Times đưa tin.
Ngôi đền được xây dựng trên đỉnh một ngôi chùa Phật giáo sớm hơn có niên đại từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên. (Ảnh minh họa: Pixabay)
Nằm ở thị trấn Barikot, cấu trúc của ngôi chùa Phật giáo này có thể có từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên. Nó được xây dựng trên nền một ngôi chùa Phật giáo sớm hơn có niên đại từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên, trong khoảng thời gian từ 563 đến 483 trước Công nguyên, theo báo cáo của Tom Metcalfe cho Live Science.
Luca Maria Olivieri, một nhà khảo cổ học tại Đại học Ca ‘Foscari ở Venice, người đứng đầu cuộc khai quật với sự hợp tác của Hiệp hội Quốc tế về Nghiên cứu Địa Trung Hải và Phương Đông (ISMEO). Địa điểm khai quật nằm trong khu vực lịch sử Gandhara, được Bách khoa toàn thư Britannica mô tả là “ngã tư thương mại và nơi gặp gỡ văn hóa giữa Ấn Độ, Trung Á và Trung Đông”.
Cấu trúc này là một trong những cấu trúc lâu đời nhất của loại hình này ở vùng Gandhara. (Ảnh: UNIVERSITA ‘CA’ FOSCARI VENEZIA)
Các nhà đứng đầu Ấn Độ giáo, Phật giáo và Ấn Độ-Hy Lạp đã giành quyền kiểm soát Gandhara ở các điểm khác nhau trong suốt thiên niên kỷ đầu tiên trước Công nguyên, Deutsche Presse-Agentur (DPA) lưu ý.
Tàn tích của ngôi đền cao khoảng 3m, chúng bao gồm một bệ nghi lễ từng được đặt trên đỉnh nhờ một bảo tháp, hoặc mái vòm thường thấy trên các đền thờ Phật giáo. Vào thời kỳ đỉnh cao, ngôi chùa tự hào có một bảo tháp nhỏ hơn ở phía trước, một phòng hoặc các am nhỏ cho các nhà sư, bục cột hoặc cột, cầu thang, các phòng tiền đình và sân chung nhìn ra một con đường.
Olivieri cho biết: “Việc phát hiện ra một di tích tôn giáo vĩ đại được tạo ra vào thời vương quốc Ấn-Hy Lạp chứng minh rằng đây là một trung tâm quan trọng và bằng chứng di tích lịch sử về văn hóa tín ngưỡng vào Thần Phật của người dân”, ông nói trong một tuyên bố. Vào thời điểm đó, Swat đã là một vùng đất thiêng liêng đối với Phật giáo.
Tàn tích của một thành cổ trong sa mạc. (Ảnh: UNIVERSITA ‘CA’ FOSCARI VENEZIA)
Ngoài ngôi đền, nhóm nghiên cứu đã khai quật được tiền xu, đồ trang sức, tượng, con dấu, mảnh gốm và các hiện vật cổ khác. Theo tuyên bố, ngôi đền có thể đã bị bỏ hoang vào thế kỷ thứ III sau Công nguyên sau một trận động đất.
Barikot xuất hiện trong các văn bản cổ điển Hy Lạp và Latinh với tên gọi “Bazira” hoặc “Beira”. Nghiên cứu trước đây cho thấy thị trấn đã hoạt động sớm nhất là vào năm 327 trước Công nguyên, vào khoảng thời gian Alexander Đại đế xâm lược Pakistan và Ấn Độ ngày nay. Bởi vì vi khí hậu của Barikot thuận lợi cho việc thu hoạch ngũ cốc và lúa gạo hai lần mỗi năm, nhà lãnh đạo Macedonian đã coi thị trấn như một “cái rọ lương thực”, theo tuyên bố.
Ngay sau khi ông qua đời vào năm 323, các lãnh thổ bị chinh phục của Alexander được chia cho các tướng lĩnh của ông. Vào khoảng thời gian này, Gandhara trở lại quyền cai trị của Ấn Độ dưới Đế chế Mauryan, kéo dài từ khoảng năm 321 đến năm 185 trước Công nguyên.
Các nhà khảo cổ học Ý đã tiến hành khai quật ở Thung lũng Swat từ năm 1955. Kể từ đó, các cuộc khai quật ở Barikot đã phát hiện ra hai thánh địa Phật giáo khác dọc theo con đường nối trung tâm thành phố với các cổng thành. Phát hiện này khiến các nhà nghiên cứu suy đoán rằng họ đã tìm thấy một “con đường của những ngôi đền”.
Theo Live Science, Phật giáo đã đạt được sức hút ở Gandhara dưới triều đại của Menander I, khoảng năm 150 trước Công nguyên, nhưng có thể chỉ được thực hành bởi giới thượng lưu. Swat cuối cùng nổi lên như một trung tâm Phật giáo linh thiêng dưới thời Đế chế Kushan (30 đến 400 CN), trải dài từ Afghanistan đến Pakistan và đến miền bắc Ấn Độ. Vào thời điểm đó, Gandhara được biết đến với phong cách nghệ thuật Phật giáo Greco, thể hiện các chủ đề Phật giáo bằng các kỹ thuật Hy Lạp.
Nguồn: NTDVN
- Ba “di vật” bí ẩn độc nhất chưa có lời giải, một cái mất dấu kỳ lạ
- Những mật mã bí ẩn chưa được giải đáp trên thế giới
- Khám phá giếng cổ 2.600 tuổi: Nơi tạo ra “sự sống sau cái chết”