Chan Thomas là một kỹ sư điện tại Mỹ, ông cũng là một nhà địa chất học thảm họa, một nhân viên của Lực lượng Không quân Mỹ và một Chuyên gia huấn luyện về Siêu cảm (ESP). Ông đã từng làm việc trong Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA). Năm 1963, ông tuyên bố đã tiếp xúc với người ngoài hành tinh và có được kiến thức từ người ngoài hành tinh mà không ai khác biết. Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ là một bộ phận quan trọng chịu trách nhiệm tiếp xúc với người ngoài hành tinh.
Ảnh chụp màn hình video Youtube
Tác già Lý Đạo Chân có bài viết trên Vision Times về câu chuyện này như sau:
Năm 1963, Chan Thomas xuất bản cuốn sách có tên “Câu chuyện Adam và Eva“. Ngay sau khi cuốn sách này được xuất bản, nó đã bị Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) cấm xuất bản và trở thành một sách cấm, nằm trong kho lưu trữ của CIA. Người ta nói rằng Thomas cũng đã mất việc tại CIA.
Ảnh chụp màn hình Youtube/ArchaeoLogic
Mãi đến năm 2013, CIA mới phải giải mã cuốn sách Thomas xuất bản năm 1963 trên trang web chính thức của nó theo Đạo luật Tự do Thông tin của Mỹ. Nhưng điều kỳ lạ là mặc dù tài liệu cho thấy cuốn sách đã được giải mã vào đầu năm 2013, nhưng thực tế nó chỉ được phát hành vào năm 2019, tức là đã bị trì hoãn tới 6 năm. Điều kỳ lạ hơn nữa là cuốn sách gốc có 284 trang nhưng CIA chỉ công bố 55 trang, còn những nội dung khác không được tiết lộ.
Ngoài ra, sau khi cuốn sách bị CIA liệt vào danh sách cấm vào năm 1963, tác giả Thomas cuối cùng đã xuất bản lại cuốn “Câu chuyện của Adam và Eve” vào năm 1993 sau nhiều năm sửa đổi, và lần này đã vượt qua vòng xét duyệt. Do đó, cuốn sách tái bản là bản đã được tác giả sửa lại, và nhiều thông tin quan trọng trong cuốn sách gốc có thể đã bị xóa. Phiên bản xuất bản ban đầu có 284 trang, nhưng phiên bản sửa đổi và tái bản chỉ có 240 trang.
Đây là loại sách gì? Tại sao nó lại thu hút được nhiều sự chú ý từ CIA? Những bí mật nào ẩn chứa bên trong?
Trước khi nói về cuốn sách này, chúng ta hãy kể một câu chuyện khác về Charles của Mỹ. Giáo sư Charles Hapgood, người đã xuất bản một cuốn sách vào năm 1953 với tên gọi “Sự di chuyển của vỏ Trái đất: Chìa khóa lý giải cho một số vấn đề cơ bản của khoa học Trái đất”. Trong cuốn sách này, ông đề xuất “Lý thuyết về sự trôi dạt lớn của lớp vỏ”, được Einstein ủng hộ mạnh mẽ. Sau khi đọc bản thảo, Einstein đã viết lời tựa cho cuốn sách trong một thời gian chưa từng có. Lý thuyết “Sự trôi dạt lớn của lớp vỏ” được Hapgood đưa ra trong cuốn sách nói rằng, lớp vỏ đã trải qua sự trôi dạt và thay đổi lớn trong một khoảng thời gian cực ngắn. Mặc dù lý thuyết này đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của Einstein, mặc dù cho đến giờ vẫn không ai có thể bác bỏ nó, nó vẫn chưa được chấp nhận bởi cộng đồng khoa học chính thống.
Hapgood đã nghiên cứu cẩn thận một số lượng lớn các bản đồ được lưu truyền từ thời cổ đại, và ông nhận thấy rằng những bản đồ cổ này đã vẽ chính xác địa hình của Nam Cực. Nam Cực quanh năm bị băng tuyết bao phủ, trên đó có một lớp băng dày, ngoại trừ các phương pháp công nghệ cao hiện nay thì không thể phát hiện được địa hình của nó. Vào thời cổ đại, con người không thể đặt chân tới được đó, vậy làm thế nào có thể vẽ một bản đồ Nam Cực chính xác? Vì vậy Hapgood tin rằng vào thời điểm đó lục địa Nam Cực không nằm ở vị trí hiện tại mà thuộc vùng nhiệt đới ôn hòa. Vào thời điểm đó, Nam Cực không hề bị băng tuyết bao phủ mà là một lục địa ấm áp, nên con người cổ đại đã vẽ lại chính xác bản đồ địa hình Châu Nam Cực. Sau đó, vỏ trái đất trôi đi rất nhiều trong một khoảng thời gian ngắn, và mảng Nam Cực trôi dạt đến vị trí hiện tại, khí hậu đột nhiên trở nên lạnh giá và vùng đất này đã bị băng tuyết bao phủ.
Charles Hapgood
Một ví dụ khác, trong 100 năm qua, các nhà khoa học Nga đã khai quật được một số loài voi ma mút đã tuyệt chủng ở vùng đất băng giá của Siberia, gần vành đai Bắc Cực. Chúng được bảo quản rất tốt, da và cơ thể của chúng vẫn còn tươi như mới chết. Trong miệng và dạ dày của những con voi ma mút này vẫn còn rất nhiều thức ăn chưa được tiêu hóa, trong đó có rất nhiều loại thực vật nhiệt đới. Những con voi ma mút này được cho là đã bị đóng băng mà chết, vì vậy chúng được bảo quản rất tốt. Nói cách khác, những con voi ma mút này ban đầu sống ở vùng nhiệt đới, và nhiệt độ đột ngột giảm xuống hơn âm 80 độ trong một thời gian ngắn, kết quả là chúng được bảo quản và đông lạnh cực kỳ nghiêm ngặt. Chỉ có một lời giải thích hợp lý có thể nhận được từ điều này: vỏ trái đất đã trôi đi rất xa trong một khoảng thời gian ngắn, và mảng lục địa nhiệt đới vốn nằm gần đường xích đạo đột nhiên trôi dạt đến Vành đai Bắc Cực. Do đó, nhiệt độ đã giảm đột ngột trong thời gian ngắn.
Cũng cần nhắc lại rằng Giáo sư Harpgood từng làm việc trong Văn phòng Dịch vụ Chiến lược, tiền thân của Cục Tình báo Trung ương (CIA) trong Thế chiến Hai, và cũng có liên quan đến CIA. Sau khi Hapgood đưa ra lý thuyết, thay vì được ca ngợi vì những đóng góp lớn của mình, ông đã bị đàn áp bằng mọi cách và bị loại khỏi cộng đồng khoa học chính thống cho đến lúc chết. Cộng đồng khoa học chính thống đã chế giễu công trình nghiên cứu của ông, “chọn một số điều tầm thường và vụn vặt chưa được chứng minh để chỉ trích ông”. Có thể nói, Hapgood đã có một cuộc sống khốn khó trong nửa sau cuộc đời.
Chúng ta hãy trở lại với cuốn sách bị cấm “Câu chuyện của Adam và Eva” của Chan Thomas. Từ những gì đã được xuất bản cho đến nay, chúng ta có thể thấy rằng Thomas đã nhắc lại lý thuyết của Hapgood về sự trôi dạt lớn của lớp vỏ trái đất trong cuốn sách này và đưa ra một số quan điểm cực kỳ táo bạo trên cơ sở này.
Ông tin rằng nền văn minh của con người đã được phát triển nhiều hơn một lần sau nhiều lần bị hủy diệt. Nói cách khác, ông tin rằng nền văn minh nhân loại đã trải qua nhiều lần tuyệt chủng rồi tái sinh, và đã có nhiều thảm họa tàn khốc trên trái đất.
Ông đã đề cập trong cuốn sách rằng từ trường của trái đất (địa từ trường) sẽ đảo ngược sau mỗi một khoảng thời gian nhất định, gây ra một loạt các thảm họa kinh hoàng.
Địa từ trường được giới khoa học cho là được tạo ra bởi chuyển động đối lưu của kim loại nóng chảy trong lõi trái đất, và nó bảo vệ sự sống trên bề mặt trái đất khỏi gió mặt trời và các tia vũ trụ. Tuy nhiên, không rõ vì lý do gì mà trong lịch sử trái đất, từ trường của trái đất đã nhiều lần đảo ngược. Tác giả chỉ ra rằng khi cấu trúc điện từ ổn định của lõi Trái đất bị phá hủy, sự đảo ngược địa từ sẽ xảy ra, đồng thời một năng lượng cực mạnh bùng phát ra khỏi lõi. Lực này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến bầu khí quyển của Trái đất và tạo ra một chất có độ nhớt cao, làm cho trạng thái vật chất trở nên lỏng hơn, làm cho lớp vỏ ban đầu vốn cố định trên thiên quyển nhanh chóng trượt về phía xích đạo do trọng lượng của các sông băng ở hai cực, gây ra sự trôi dạt lớn của lớp vỏ.
Thomas đã chỉ ra trong cuốn sách rằng sự trôi dạt lớn của lớp vỏ được mô tả ở trên xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn, không phải hàng nghìn năm hay hàng trăm năm mà hoàn thành trong vòng chỉ vài giờ.
Thomas cũng đề xuất rằng trong quá trình dịch chuyển của lớp vỏ, không chỉ có các thảm họa như động đất và núi lửa sẽ được kích hoạt, mà còn có thể xảy ra đồng thời sóng thần lớn và lũ lụt. Do sự chuyển động tương đối của đại dương và lục địa, nước biển sẽ tạo thành một cơn sóng thần cao vài km, sẽ nhấn chìm hoàn toàn đất liền trong vòng vài ngày. Cảnh này được mô tả sinh động và chi tiết trong cuốn sách, sau đó được quay thành phim Bom tấn thảm họa của Hollywood mang tên “2012”.
Con tàu Noah
Cuốn sách mô tả nó như thế này: Sau một tiếng động lớn và âm ỉ, trái đất bắt đầu lắc lư dữ dội, gió thổi ầm ầm, mặt đất lở và nứt, và nước biển Thái Bình Dương tạo thành một làn sóng cao hai dặm, lao về phía bờ biển phía tây của Hoa Kỳ như một ngọn núi lớn. San Francisco và Los Angeles đã ngay lập tức bị nhấn chìm, những con sóng tiếp tục cuộn vào nội địa với tốc độ 1.000 dặm một giờ. Chỉ hai giờ sau nó đã đến bờ biển phía đông từ bờ biển phía tây của Hoa Kỳ, đi qua toàn bộ lục địa Bắc Mỹ. Nền văn minh hiện đại của con người đã bị hủy diệt hoàn toàn. Khi mọi thứ kết thúc, những người sống sót trở về thời kỳ đồ đá, và một nền văn minh mới bắt đầu lại.
Thomas tin rằng sự xuất hiện theo chu kỳ của các thảm họa địa chất nói trên đã khiến nền văn minh nhân loại bị hủy diệt nhiều lần, đồng thời khiến loài người quay trở lại thời kỳ đồ đá rồi lại phát triển trở lại. Ông tin rằng các thần thoại và truyền thuyết lưu truyền trên thế giới là những thứ có thật, chẳng hạn như truyền thuyết về Adam và Eva và con thuyền Nô-ê, tổ tiên của loài người ở Trung Quốc, v.v. Đây là lời giải thích của Thomas dưới góc nhìn của riêng ông, tác giả tin rằng nhiều thần thoại là có thật, và các vị thần là những sinh vật thông minh hơn tồn tại ở các không gian cao hơn. Bạn có thể tham khảo loạt bài viết “Giải thích mật mã thần thoại” của tác giả. Tuy nhiên, giới khoa học đã kịch liệt phủ nhận sự tồn tại của Chúa, tẩy não loài người bằng thuyết tiến hóa và thuyết vô thần từ khi còn nhỏ, khiến người ta nghĩ rằng Chúa gắn liền với mê tín, dị đoan,… khiến họ tránh xa.
Có nhiều sự thật đang bị che giấu thông qua dư luận xã hội, giáo dục và các hệ thống khác để thực hiện những hướng dẫn sai lầm và ngăn cản mọi người tiếp cận. Ở đây, hãy nói về một câu chuyện liên quan khác:
Nhà địa chất học nổi tiếng người Mỹ J Harlen Bretz đã bị giới khoa học và công nghệ đàn áp hơn nửa thế kỷ vì cho rằng một trận đại hồng thủy hủy diệt nền văn minh nhân loại đã xảy ra. Quan điểm của ông bị giới công nghệ xác định là “tư tưởng dị giáo”, và bản thân ông vì thế cũng bị chèn ép và đàn áp khắp nơi, bị những người trong giới khoa học kỹ thuật chế giễu. Bởi vì ông đã chạm vào những lĩnh vực khoa học kỹ thuật mà thế lực đen tối kiểm soát thế giới không muốn con người chạm vào. Quan điểm của ông bị dán nhãn là báng bổ khoa học, đảo ngược khoa học, để mọi người tránh xa lập luận của ông.
Qua nhiều năm nghiên cứu thực địa về các dạng địa hình đặc biệt của Cao nguyên Columbia, Bretz đã xuất bản một loạt bài báo kể từ năm 1923, chứng minh rằng một trận lũ lụt “thảm khốc” bất ngờ là nguyên nhân của các dạng địa hình đặc biệt của Cao nguyên Columbia.
Trước đó, “lý thuyết đồng nhất” luôn là xu hướng chủ đạo trong giới địa chất gia và đã được quảng bá rộng rãi. “Lý thuyết đồng nhất” cho rằng tất cả sự hình thành và thay đổi của địa chất và địa mạo đều được hình thành do quá trình bào mòn chậm chạp của lịch sử lâu dài, điều này để phù hợp với thuyết tiến hóa. Nhưng Bretz chỉ ra rằng sự xói mòn dần dần không thể gây ra địa hình bất thường rộng gần 30.000 km vuông ở Cao nguyên Columbia, mà chỉ một trận lũ bất ngờ và thảm khốc mới có thể tạo ra dạng địa hình kỳ lạ giống như “bị tàn phá” này.
Khi quan điểm của Bretz được đưa ra, giới địa chất học coi đó là một “giả thuyết nhằm gây sốc”, nhìn nhận rằng giả thuyết của ông thoát thai từ câu chuyện huyền thoại về con tàu Noah trong Kinh thánh, và ông đang chỉ cố gắng chứng minh “huyền thoại và truyền thuyết” mà báng bổ khoa học, đi ngược lại khoa học một cách nghiêm trọng. Kể từ đó, Bretz đã trở thành một kẻ lạc lõng trong cộng đồng khoa học, là mục tiêu chỉ trích của công chúng, và bị giới khoa học ở khắp nơi đàn áp và chế giễu.
Trong những thập kỷ đấu tranh tiếp theo, Bretz đã phải nhượng bộ trong khi chiến đấu với giới khoa học gia và đưa ra một thỏa hiệp tương ứng với “lý thuyết đồng nhất”. Ông đã sửa từ một trận đại hồng thủy thành bảy trận, rằng sau khoảng bảy trận đại hồng thủy, địa hình của Cao nguyên Columbia mới được hình thành. Nhưng cùng với sự phát triển của công nghệ hàng không, khi các bản đồ vệ tinh bắt đầu xuất hiện trong mắt công chúng, giới khoa học mới chấp nhận lý thuyết trận đại hồng thủy của Bretz. Năm 1979, khi Bretz 97 tuổi, Hiệp hội Địa chất Mỹ đã trao tặng cho ông “Huân chương Penrose” (danh hiệu cao quý nhất của Hiệp hội Địa chất Mỹ). Bài phát biểu về giải thưởng nêu rõ: “Mặc dù lý thuyết trận đại hồng thủy đã gây tranh cãi từ lâu, nhưng một bức ảnh được chụp bởi vệ tinh cách Trái đất ở độ cao 900km trên không đã cung cấp bằng chứng rõ ràng về phạm vi và bản chất của thảm họa thời tiền sử này”. May mắn thay, Bretz đã sống rất lâu cho đến ngày này. Sau khi nhận giải, Bretz nói: “Kẻ thù của tôi đều đã chết, v
ì vậy tôi không còn ai để hả hê”.
Có những truyền thuyết về trận Đại hồng thủy trong thần thoại và truyền thuyết trên khắp thế giới, người ta tin rằng nền văn minh nhân loại tái sinh và tái phát triển sau nhiều lần bị hủy diệt.
Ngoài câu chuyện về Con tàu của Nô-ê nổi tiếng được ghi lại trong Kinhthánh, cũng có câu chuyện về Đại Vũ trị thủy ở Trung Quốc. Theo tính toán, thời điểm trận đại hồng thủy của Nô-ê trùng với thời điểm xảy ra trận hồng thủy vào thời Ngũ hoàng của Trung Quốc, và có khả năng nó chính là trận lụt toàn cầu cuối cùng hủy diệt nền văn minh nhân loại.
ảnh chụp màn hình Youtube/Science Fiction Channel
Kinh Thánh ghi lại: Vào ngày 17 tháng Hai, năm Nô-ê 600 tuổi, tất cả các lục địa đều nổ tung, các đập nước từ thiên thượng mở ra, và chúng trút nước xuống trái đất trong bốn mươi ngày đêm.
“Trận đại hồng thủy nhấn chìm trái đất trong 150 ngày … rồi nước rút khỏi mặt đất và hạ dần. Sau 150 ngày, nước rút rất nhiều. Vào ngày 17 tháng 7, con tàu dừng lại trên núi Ararat”.
“Gần hai tháng rưỡi sau đó, vào ngày 1 tháng 10, đỉnh núi đã lộ diện”.
Trong “Kinh thánh” có thể thấy rằng trận đại hồng thủy đã nhấn chìm núi Ararat và con tàu dừng lại trên núi Ararat. Ararat là ngọn núi cao nhất ở phía đông Thổ Nhĩ Kỳ, có hai đỉnh chính, đỉnh chính cao 5.165 mét so với mực nước biển, là đỉnh cao nhất ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Ngày nay, người ta đã tìm thấy di tích Durupınar nổi tiếng ở độ cao 1.989 mét trong vùng Ararat. Những tàn tích còn lại của Durupnar có hình dạng chính xác của một chiếc tàu và chiều dài chính xác là 150 mét, hoàn toàn khớp với kích thước con tàu của Nô-ê được ghi trong Kinh thánh! Một số chuyên gia cho rằng đây chính là xác tàu của Nô-ê từng bị đất đá vùi lấp trong lịch sử.
Cả tờ “The Sun” và “Fox News” đều đưa tin rằng, vào cuối năm 2019, kỹ sư máy tính và nhà khảo cổ học Andrew Jones cùng nhà địa vật lý John Larsen đã tiến hành nghiên cứu địa điểm Durupnar nổi tiếng. Họ đã sử dụng công nghệ hình ảnh 3D mới nhất để gửi tín hiệu điện xuống lòng đất thông qua dây cáp để quét phần ngầm của di tích Durupnar. Họ thấy rằng phần nằm dưới lòng đất thực sự là một phần của một con tàu! Bức ảnh vẫn chưa được phát hành và sẽ có trong tay nhà sản xuất phim Jim Cem Sertesen đã phát hành một bộ phim tài liệu mới “Con tàu Nô-ê 2” được công bố.
Hiện tại, Sertesen đang hoàn thành bộ phim “Con tàu Nô-ê 2”, và tiết lộ rằng họ sẽ công bố trong “Con tàu Nô-ê 2” với những bức ảnh quét 3D dưới lòng đất của tàn tích Durupnar mà không qua xử lý. Jim. Sertesen cũng nói rằng những bức ảnh quét 3D mới nhất cho thấy thực sự có cả một con tàu bị chôn vùi dưới lòng đất tại địa điểm Durupnar! Và không có chuyện làm giả … Phim vẫn chưa ra mắt, chúng ta cùng chờ xem.
Trên thực tế, đã có rất nhiều bằng chứng chứng minh rằng những gì được kể trong thần thoại và truyền thuyết là có thật, và nền văn minh nhân loại đã trải qua nhiều kiếp luân hồi, và loài người không phải tiến hóa từ loài khỉ. Tuy nhiên, những bằng chứng này đã bị thế lực đen tối của cộng đồng khoa học đàn áp và phong tỏa, thậm chí bị hủy hoại một cách bừa bãi mà không được mọi người nhìn nhận và liên hệ chúng với nhau.
Nguồn: DKN
- Những cuộn sách tại vùng biển Chết tiết lộ con thuyền Noah có hình dáng như kim tự tháp
- Con tàu huyền thoại Noah được tìm thấy như thế nào?
- Một “nghĩa địa” tàu đắm giải mã bí ẩn con tàu Nô-ê