Từ lâu, người ta vẫn cho rằng Sáng thế ký và thuyết Big Bang là không thể tương đồng. Tuy nhiên, Daniel Friedmann, tác giả cuốn sách ‘Đồng hồ Kinh thánh’ (Biblical Clock) – cuốn sách Best Seller trên toàn thế giới về mật mã của Sáng thế ký – lại cho thấy khoa học và Kinh thánh có sự tương đồng.
Sáng thế ký (Genesis) – cuốn sách nói về Sự sáng tạo của Thiên Chúa (Sáng Thế Chủ) đối với vũ trụ, con người và vạn sự vạn vật đã được giảng dạy cho hàng tỷ người theo Do Thái giáo và Kitô giáo trên toàn thế giới hàng nghìn năm nay. Trong khi đó các nhà khoa học cũng đưa ra thuyết Big Bang (Vụ nổ lớn) để giải thích sự hình thành của vũ trụ. (Ảnh: Shutterstock)
Daniel Friedmann có một sự nghiệp danh giá, ông sinh ra ở Chile và lớn lên ở Canada. Ông đã từng là Chủ tịch và CEO trong 20 năm của MDA – một công ty công nghệ truyền thông được NASA lựa chọn để xây dựng hệ thống cánh tay robot Dextre cho việc sửa chữa trạm không gian quốc tế ISS và kính viễn vọng Hubble. Friedmann hiện là Chủ tịch của công ty Carbon Engineering. Ông là một kỹ sư chuyên nghiệp và có bằng thạc sĩ về vật lý kỹ thuật.
Friedmann có 30 năm kinh nghiệm trong ngành khoa học vũ trụ, đã làm việc cho các dự án ở 15 quốc gia và tiến hành nghiên cứu khoa học sâu rộng trong nhiều thập kỷ. Ông đã xuất bản hơn 20 bài báo khoa học được bình duyệt (peer review) về các chủ đề vũ trụ và vũ trụ học. Là một tín đồ tôn giáo lâu năm, Friedmann dành nhiều thời gian cho việc “hoà giải” những bất đồng giữa Kinh thánh và khoa học bằng cách sử dụng công thức “Đồng hồ Kinh thánh” đã được báo cáo trên nhiều tờ báo, tạp chí và chương trình phát thanh.
Cuốn sách ‘Đồng hồ Kinh thánh’ của Daniel Friedmann. (Ảnh: Amazon)
Dưới đây là một số quan điểm của Daniel Friedmann về sự tương đồng giữa Kinh thánh và Khoa học trong việc giải thích sự hình thành của vũ trụ:
Vũ trụ không vĩnh cửu
Trong phần lớn lịch sử nhân loại, các nhà khoa học chủ yếu tin rằng vũ trụ là vĩnh cửu và không thay đổi. Aristotle trong thế kỷ thứ tư trước Công nguyên đã khẳng định rằng thế giới không có điểm bắt đầu hay kết thúc. Nhưng cũng có quan điểm trái ngược với ông, cho rằng vũ trụ là có sự khởi đầu.
Các tác phẩm của Aristotle đã bị thất lạc phần lớn trong khoảng bảy thế kỷ, nhưng bắt đầu hồi sinh vào thế kỷ thứ mười ba. Quan điểm vũ trụ vĩnh cửu sau đó thống trị khoa học cho đến đầu thế kỷ XIX.
Quan điểm này đã khiến Albert Einstein đưa ra điều mà ông coi là sai lầm lớn nhất trong sự nghiệp của mình. Ngay sau khi Einstein phát triển lý thuyết tương đối tổng quát (1915), Alexander Friedmann, một nhà toán học người Nga, đã giải các phương trình của Einstein cho toàn vũ trụ (phiên bản đầu tiên của lý thuyết Vụ nổ lớn – Big Bang), cho thấy những phương trình đó có nghĩa là vũ trụ đang giãn nở.
Nếu đây là sự thật, nó hẳn đã được mở rộng từ một điểm bắt đầu, do đó nó không thể là vĩnh cửu. Einstein sau đó đã sửa đổi các phương trình của mình, khiến chúng cho thấy vũ trụ là tĩnh và vĩnh cửu.
Năm 1929, Edwin Hubble, một nhà thiên văn học tại Viện Công nghệ California, đã phát hiện ra vũ trụ đang thực sự giãn nở. Einstein sau đó đã bỏ các sửa đổi và quay trở lại các phương trình ban đầu.
Nhưng bằng cách tuân thủ quan điểm vĩnh cửu trong thời gian tạm thời, ông đã bỏ lỡ dự đoán một trong những khám phá lớn nhất trong vũ trụ học: sự mở rộng vũ trụ. Từ thời điểm đó, khoa học cho rằng vũ trụ của chúng ta có thời điểm bắt đầu và các nhà khoa học đã tập trung vào lý thuyết Big Bang.
Sơ đồ tạo ra vũ trụ từ Vụ nổ lớn bên trái – đến hiện tại. (Ảnh: Cherkash / Public Domain)
Kinh thánh ngay từ đầu đã nói, “Khởi đầu, Thiên Chúa đã tạo ra Thiên đàng và Trái đất…”, nghĩa là vũ trụ có điểm khởi đầu. Chúng ta hãy xem xét những gì khoa học đã biết về cách vũ trụ khởi đầu, sau đó là những gì Kinh thánh nói.
Sự sáng tạo như các khối cơ bản (Building Blocks)
Các nhà khoa học dường như đã hiểu được các khối cơ bản của vũ trụ bằng cách liên tục tách rời mọi thứ cho đến khi có được những phần không thể chia nhỏ hơn nữa: các hạt cơ bản, chẳng hạn như electron. Để làm điều này, chúng ta đã chế tạo máy gia tốc hạt để làm cho các hạt va chạm với tốc độ ánh sáng, sau đó phân tích kết quả.
Sự phá vỡ các hạt không chỉ tiết lộ những hạt mới, nó cũng cung cấp cho các nhà vật lý manh mối về cách các hạt tương tác và cái nhìn sâu sắc về các lực cơ bản và quy luật tự nhiên. Trong trường hợp của proton, chúng ta phát hiện ra rằng nó được tạo thành từ ba hạt quark, mà với kiến thức hiện tại, các nhà khoa học tin là các hạt cơ bản. Gần đây, tại CERN (Tổ chức nghiên cứu hạt nhân châu Âu), Máy gia tốc hạt lớn (HLC) đã tìm ra boson Higgs , một hạt cơ bản mà trước đó chỉ được suy đoán trong giả thuyết.
Sự kiện phát hiện boson Higgs từ va chạm giữa các proton trong LHC. Sự kiện bên trên trong thí nghiệm CMS cho thấy sự phân rã thành hai photon – các đường màu vàng đứt nét và các khối màu xanh lá cây. Sự kiện bên dưới trong thí nghiệm ATLAS cho thấy sự phân rã thành bốn muon (1 trong 6 loại hạt nhẹ) – vệt màu đỏ. (Ảnh: Cteirmn / CC BY-SA 3.0)
Tại sao lại có 2 hạt quark, một electron…? Và tại sao chúng có các thuộc tính như khối lượng và điện tích với các giá trị cụ thể? Câu trả lời ngắn gọn là chúng ta không biết; Đó đơn giản là những gì chúng ta phát hiện được bằng cách phá vỡ vật chất.
Khi chúng ta nhìn vào bầu trời đêm, chúng ta không chỉ chiêm ngưỡng những ngôi sao lấp lánh và các hành tinh phát sáng, chúng ta thực sự đang nhìn vào quá khứ. Phải mất một khoảng thời gian hữu hạn để ánh sáng đi đến mắt của chúng ta, mặc dù thông thường chúng ta không nhận thấy điều này. Ánh sáng truyền đi với tốc độ khoảng 300.000 km mỗi giây, vì vậy khi chúng ta nhìn vào mặt trời, chúng ta đang nhận được ánh sáng rời khỏi mặt trời khoảng 8 phút trước đó. Nếu mặt trời đột ngột tắt, chúng ta sẽ chỉ biết điều đó sau 8 phút.
Khi chúng ta nhìn vào các ngôi sao hoặc thiên hà khác, chúng ta thấy ánh sáng của nó có lẽ cách đây đã 5 năm trước, 100 năm trước, hoặc một tỷ năm trước. Mỗi vật thể trên bầu trời đêm mà chúng ta đang thấy là hình ảnh của chúng ở một thời điểm trong quá khứ, thời điểm khác nhau cho mỗi đối tượng, tùy thuộc khoảng cách của chúng. Vì vậy, khi chúng ta nhìn vào vũ trụ, dường như chúng ta đang nhìn thấy những bức ảnh chụp các phần khác nhau vào các thời điểm khác nhau: Trái đất trông như hiện tại, mặt trời như cách đây 8 phút, trung tâm của Dải Ngân Hà ở thời điểm 26.000 năm trước, v.v. Ngày nay, với Kính viễn vọng không gian Hubble, chúng ta có thể thấy ánh sáng còn lại 13 tỷ năm trước, rất gần với thời điểm khởi đầu của vũ trụ theo quan điểm của khoa học.
Kính viễn vọng Hubble phóng lên năm 1990 (Ảnh: NASA)
Các nhà khoa học nghiên cứu vũ trụ áp dụng cả hai cách tiếp cận: họ tách rời vật chất để khám phá các hạt và lực cơ bản của tự nhiên, và họ nhìn vào các ngôi sao và thiên hà để ghép lại thành những bức tranh về vũ trụ trong nhiều thời điểm khác nhau trong lịch sử. Kết hợp các kết quả của các phương pháp này, các nhà khoa học đạt được sự hiểu biết về cách vũ trụ hình thành và vũ trụ hiện nay ra sao, và họ gói gọn kiến thức này dưới dạng toán học: lý thuyết Big Bang.
Sự sáng thế trong Kinh thánh và thuyết Big Bang
Tuy nhiên, khi ngoại suy ngược thời gian với lý thuyết Big Bang, chúng ta có thể tới thời điểm gần như bắt đầu nhưng không phải điểm bắt đầu. Như nhà vật lý và tác giả Brian Greene giải thích trong cuốn sách bán chạy nhất của mình: “Lý thuyết Big Bang mô tả quá trình tiến hóa vũ trụ từ thời điểm một phần của một giây sau khi điều gì đó đã xảy ra khiến vũ trụ tồn tại, nhưng nó không nói gì cả về điểm thời gian bằng không”; thay vào đó, “chúng ta đã không tìm hiểu về sự khởi đầu của thời gian”.
Nói tóm lại, khoa học có một sự hiểu biết to lớn về cách vũ trụ phát triển từ một phần của một giây sau khi bắt đầu. Nhưng họ không biết vũ trụ bắt đầu thế nào – thời gian đã tồn tại thế nào, không gian đã hình thành như thế nào – cũng như tại sao các lực tự nhiên là như vậy hoặc tại sao chúng ta có các hạt cơ bản nhất định với các đặc tính hiện có. Nhiều cách tiếp cận khác nhau đã được đề xuất, chẳng hạn như tồn tại đa vũ trụ, nhưng không có cách nào trong số chúng đạt được sự đồng thuận khoa học hoặc là có thể kiểm chứng được tại thời điểm này.
Tuy nhiên, có một sự hiểu biết rằng vũ trụ là “không có gì – hư vô – nothing”. Nhưng theo cách hiểu này, thì “không có gì” thực sự vẫn có nghĩa là “có gì đó”, tối thiểu là trọng lực và không gian. Thông thường, cái “không có gì” nói đến “chân không lượng tử – quantum vacuum”, là trạng thái rất sớm của vũ trụ trong phần đầu của một giây, khi vũ trụ rất nóng và đậm đặc đến nỗi các hạt vật lý không thể tồn tại. Tuy nhiên, theo sự hiểu biết ngày nay về “trạng thái chân không – vacuum state”, hay chân không lượng tử, thì đó không phải là một khoảng không trống rỗng đơn giản.
Sáng tạo vũ trụ từ chân không lượng tử – Lý thuyết trường lượng tử và sơ đồ Feynman (Ảnh: VectorMine / Adobe)
Cơ học lượng tử cho rằng một trạng thái chân không chứa các sóng điện từ thoáng qua và các hạt bật ra và tồn tại. Trong chân không lượng tử ở thời điểm khởi đầu đầu của vũ trụ, thời gian, không gian, các định luật vật lý và các hạt đều tồn tại. Tuy nhiên, các hạt không tồn tại như các thực thể vật lý bởi vì ở nhiệt độ cao như vậy, ngay khi chúng xuất hiện, chúng đã trở lại thành năng lượng – chúng là các hạt “ảo”.
Do sự vắng mặt rõ ràng của các hạt vật lý, dường như ở đó không có gì, nhưng trong thực tế, ở đó có mọi thứ cần thiết để tạo ra vũ trụ tồn tại. Khi vũ trụ giãn nở và nguội đi, các hạt xuất hiện và giữ nguyên trạng thái; cuối cùng, các ngôi sao và thiên hà hình thành.
Xem xét một cách kỹ càng, Kinh Thánh (Bible) thực sự cho chúng ta biết vũ trụ đã hình thành như thế nào. Trong dòng đầu tiên, nó nói rằng vũ trụ đến từ “vật chất hư vô” (nothing physical). Từ được sử dụng trong tiếng Do Thái là “bara”, có nghĩa là sáng tạo từ hư vô (ex nihilo creatio). Trong Kinh thánh, vật chất hư vô có nghĩa là không có gì – không có thời gian, không có không gian, không có các lực tự nhiên, không có các hạt cơ bản. Theo Sáng thế ký (Sách Sáng thế – Genesis), khởi đầu, Thiên Chúa tạo ra từ vật chất hư vô.
Cái hư vô thường được đề cập trong khoa học được ám chỉ trong Sáng thế ký 1:2: “Hiện tại, trái đất trống trống rỗng một cách đáng kinh ngạc [tohu và vohu], và bóng tối ở trên mặt sâu thẳm”. “Tohu và vohu” ở đây được định nghĩa rất giống với chân không lượng tử, trạng thái mà ở đó vật chất ban đầu của vũ trụ đã tồn tại nhưng không có sức mạnh hoặc không ở dạng hữu hình (như các hạt ảo trong khoa học) và ở trong trạng thái hỗn độn.
Sự sáng tạo của vũ trụ từ hư vô – “hu tohu và vohu” này được định nghĩa tương tự như chân không lượng tử. (Ảnh: kerenby / Adobe Stock)
Nhưng làm thế nào vũ trụ phát triển theo Sáng thế ký, và tại sao phương pháp khoa học cho phép chúng ta hiểu mọi thứ trừ sự khởi đầu ?
Sáng thế ký giải thích sự sáng tạo?
Khi đọc Sáng thế ký, chúng ta cần nhận ra hai điều. Một là toàn bộ chương đầu tiên của Sáng thế ký, mô tả sự sáng tạo ra thế giới, được thuật lại không phải bởi Thiên Chúa dưới tên Yahweh, mà bởi Thiên Chúa dưới cái tên Elokim, có nghĩa là “Chủ nhân của tất cả các lực lượng – Master of all the forces”. Điều này bởi vì từ gốc là “el”, có nghĩa là sức mạnh. Phần thứ hai của tên, hem/him, biểu thị “họ/số nhiều”, ở đây có nghĩa là tất cả các sức mạnh khác. Vì vậy, Elokim có nghĩa là “quyền lực trên tất cả các quyền lực”.
Nói cách khác, không chỉ Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa hay Sáng thế chủ, như Sáng thế ký nói rõ, mà Ngài còn là chủ nhân của tất cả các lực lượng của tự nhiên trong vũ trụ. Vì vậy, Sáng thế ký đang nói với chúng ta rằng Thiên Chúa chọn hoàn thành toàn bộ sự sáng tạo bằng cách hành động trong tự nhiên. Trong Kinh Thánh, Ngài đã tạo ra tự nhiên ngay từ đầu, và Ngài có thể đã chọn tạo ra vũ trụ theo cách có vẻ kỳ diệu đối với chúng ta, nhưng thay vào đó, Ngài đã sáng thế theo các quy luật tự nhiên.
Sáng thế ký cho chúng ta biết Thiên Chúa là chủ nhân của tất cả các lực lượng và tạo ra vũ trụ. (Ảnh: Sergey Nivens / Adobe Stock)
Điểm thứ hai chúng ta cần nắm bắt là hầu hết các hành vi sáng tạo trong Sáng Thế ký là những gì chúng ta sẽ gọi là “tạo ra – making”, nghĩa là lấy thứ gì đó và biến nó thành thứ khác. Ví dụ, mặt trời đã được tạo ra từ hydro và heli; theo cách rất thông thường, chúng ta sẽ lấy gỗ, đinh và làm một cái ghế. Điều này có nghĩa là phần lớn các hành vi trong Sáng Thế ký liên quan đến việc lấy thứ gì đó, tạo ra thứ khác và thực hiện điều này theo quy luật tự nhiên.
Đây chính xác là những gì khoa học hướng tới: quan sát cách một thứ gì đó thay đổi và giải thích sự thay đổi bằng một quy luật tự nhiên. Vì vậy, đối với tất cả những hành vi đó, khoa học sẽ có một lời giải thích hoàn toàn “tự nhiên”. Tại sao? Bởi vì Thiên Chúa đã chọn ẩn mình trong tự nhiên và làm cho tất cả những hành vi này diễn ra một cách tự nhiên.
Chỉ có ba trường hợp ngoại lệ, khi Thiên Chúa làm việc trong tự nhiên nhưng bắt đầu không phải từ một thứ đã tồn tại mà từ hư vô. Chúng được mô tả bởi từ “bara”. Một trong những sự kiện này, như chúng ta đã thấy, liên quan đến sự khởi đầu của vũ trụ, hai sự kiện còn lại là sự xuất hiện của sự sống.
Sự kiện vũ trụ xuất hiện từ một thứ-không-có-gì (something-from-nothing) ở thời điểm rất sớm – thời điểm bắt đầu, Thiên Chúa đã tạo ra từ hư vô. Và sự kiện này không thể được hiểu theo phương pháp khoa học bởi vì theo định nghĩa, nó không liên quan đến bất cứ điều gì về vật chất.
Nói tóm lại, khoa học và Kinh thánh đồng ý rằng vũ trụ xuất hiện thông qua các phương pháp tự nhiên, như: các lực tự nhiên tác động lên các hạt theo thời gian, hình thành tất cả các cấu trúc chúng ta thấy, bao gồm cả mặt trời và hành tinh của chúng ta. Tuy nhiên, Kinh thánh khẳng định rằng, khoảnh khắc đầu tiên – khi thời gian, không gian, các lực và các hạt xuất hiện – là không thể giải thích được bằng phương pháp khoa học. Đó là một hành động từ hư vô. Cho đến nay, khoa học không có lời giải thích cho sự khởi đầu này cũng như lý do tại sao các lực và hạt cơ bản là như vậy.
Sáng tạo là lực của tự nhiên tác động lên các hạt theo thời gian (Ảnh: Shutterstock)
Giải mã các mốc thời gian sáng tạo trong Sáng thế ký
Hầu hết những người theo đạo Do Thái và Kitô giáo đều biết câu chuyện Thiên Chúa tạo ra vũ trụ trong 7 ngày sáng tạo, được đề cập trong Chương đầu tiên của Sáng thế ký.
Ngày 1: Thiên Chúa tạo dựng ánh sáng và phân rẽ khỏi bóng tối.
Ngày 2: Thiên Chúa phân rẽ nước bên trên (mưa) với nước bên dưới (biển).
Ngày 3: Thiên Chúa phân rẽ nước bên dưới (biển) ra khỏi đất khô.
Ngày 4: Thiên Chúa cho cư ngụ trong bầu trời với mặt trời, mặt trăng và tinh tú.
Ngày 5: Thiên Chúa cho cư ngụ trong vòm trời đầy chim chóc và trong đại dương nhung nhúc cá biển.
Ngày 6: Thiên Chúa cho cư ngụ trên mặt đất các thú vật và loài người.
Ngày 7: Thiên Chúa ăn mừng; Ngài chúc lành cho ngày này và nghỉ ngơi.
Daniel Friedmann phát hiện sự giải thích về sự sáng tạo của Thiên Chúa đối với vũ trụ được đề cập và bàn luận rất nhiều trong các cuốn sách về Kabbalah (cây sự sống), phần vô cùng quan trọng của Ngũ thư (Torah) – 5 cuốn sách đầu tiên của kinh điển Tanakh của Do Thái giáo.
Thay vì nhìn nhận vũ trụ và trái đất được tạo ra hơn 7.000 năm trước như nhiều người Do Thái giáo và Kitô giáo nhìn nhận một cách đơn giản về thời điểm sáng tạo của Thiên Chúa, những giáo sĩ nghiên cứu Kabbalah (Kabbalist) của Do Thái giáo phát hiện ra khái niệm các chu kỳ vũ trụ (cosmic cycles) sau khi diễn giải các kinh thánh. Họ cho rằng mỗi một ngày trong 7 ngày sáng thế của Thiên Chúa là một chu kỳ vũ trụ.
Isaac ben Samuel, một người Do thái giáo sinh ra từ thành phố Arce (Akko), phía bắc Israel, sống ở nửa cuối thế kỷ 13, đầu thế kỷ 14, có lòng tin vào Thiên chúa và có khả năng giải mã sự bí ẩn của kinh thánh. Ông thường ghi chép lại những gì ông nhìn thấy trong mỗi giấc mơ hoặc những điều ông được khải thị mỗi ngày. Trong một tài liệu giải thích về Kabbalah, Isaac nói rằng mỗi ngày của Chúa tương đương với 1.000 năm nơi nhân loại. ( “For a thousand year in your sight are one day” (Psalms 90:4)
Sau nhiều năm nghiên cứu và tìm hiểu về các kinh điển Do Thái giáo, Daniel Friedmann đi đến phát hiện và diễn giải như sau:
1 Ngày Sáng tạo của Thiên Chúa tương ứng với 1 chu kỳ của vũ trụ, tương ứng với 7.000 Năm của Thiên Chúa
1 Năm của Thiên Chúa tương đương với 365,25 Ngày của Thiên Chúa
1 Ngày của Thiên Chúa tương đương 1.000 năm nơi nhân loại
365,25 Ngày của Thiên Chúa hay 1 Năm của Thiên Chúa = 365.250 năm của nhân loại
Vì vậy, một Ngày sáng tạo hay 1 chu kỳ vũ trụ tương ứng 2.556.750.000 năm của nhân loại (2,556 tỷ năm).
Cả Isaac ben Samuel và Daniel Friedmann đều cho rằng những Ngày sáng tạo của Chúa dừng lại vào ngày thứ 6 trong 7 ngày sáng tạo được nói đến trong Sáng thế ký, bởi vì trước khi ngày thứ 6 kết thúc, Adam và Eve đã phạm tội ăn trái cấm và bị trục xuất khỏi Vườn Địa Đàng. Như vậy, nếu tính rằng vũ trụ đã trải qua 6 chu kỳ vũ trụ thì tuổi thọ của vũ trụ tương đương 6*2,556 = 15,336 tỷ năm. Tuổi vũ trụ này khá khác biệt với tuổi thọ vũ trụ mà các nhà khoa học hiện nay phát hiện ra theo thuyết Big Bang, khoảng 13,65 đến 13,89 tỷ năm về trước.
Friedmann phát hiện cuốn kinh thánh Do Thái giáo có tên là Tractate Sanhedrin đã mô tả rất chi tiết về Ngày sáng tạo thứ 6:
“Ngày có 12 giờ [ngụ ý đến thời gian ban ngày từ 6AM đến 6PM].
Trong giờ đầu [6AM -7AM], bùn đất của anh ta [Adam] được thu thập;
Trong giờ thứ hai, nó [bùn đất] được nhào nặn thành một khối không có hình thù.
Trong giờ thứ ba, tay chân [cơ thể] của anh ta [Adam] được nặn;
Trong giờ thứ tư, một linh hồn được truyền vào anh ta [Adam];
Trong giờ thứ năm, anh ta lớn lên và đứng trên đôi chân của mình;
Trong giờ thứ sáu, anh đặt tên cho chúng [các động vật];
Trong giờ thứ bảy, Eve trở thành người bạn đời của anh;
Trong giờ thứ tám, họ lên giường với 2 người và xuống giường với 4 người [Cain và Abel đã được ‘sinh ra”];
Trong giờ thứ chín, anh ta được lệnh là không thể ăn trái cấm,
Trong giờ thứ mười, anh ta phạm tội;
Trong giờ thứ mười một, anh bị xét xử,
Trong giờ thứ mười hai [5PM-6PM], anh ta bị trục xuất [khỏi Eden] và rời đi…”
Theo Daniel Friedmann, “đoạn văn này là công cụ cho việc thiết lập định thời của mọi điều liên quan đến Adam và con người, nhưng nó cũng cung cấp các thông tin quan trọng về thực vật. Khi chúng ta kết hợp Tractate Sanhedrin với các tài liệu khác, rõ ràng là cây cối bắt đầu xuất hiện sau khi Adam được hoàn thiện vào đầu giờ thứ 6 (11AM) và tất cả xuất hiện tại thời điểm Adam được nhắc nhở không được ăn trái cấm, tại cuối giờ thứ chín (3PM).”
Sau hàng tháng tìm kiếm và đọc tài liệu, Daniel Friedmann đã có thể xác định chính xác các mốc thời gian trong các Ngày sáng tạo được mô tả trong Sáng thế ký.
Tu luyện – Nền khoa học bị lãng quên
Tuổi thọ của vũ trụ: Kinh thánh Do Thái giáo nói rằng một Ngày sáng tạo của Thiên Chúa bắt đầu từ buổi tối, lúc 6 giờ chiều và kết thúc vào 6 giờ chiều ngày hôm sau và Thiên Chúa thường “làm việc” vào ban ngày, đặc biệt là việc sáng thế bắt đầu vào lúc 6 giờ sáng của ngày thứ nhất hay là 12 giờ sau khi ngày thứ nhất bắt đầu.
Nghĩa là, thời gian sáng thế cách đây một khoảng thời gian = 6 ngày * 24 giờ – 12 giờ -3 giờ = 129 giờ, tương đương 5,375 ngày sáng tạo, tương ứng với 13,743 tỷ năm.
Hay nói một cách khác, tuổi thọ của vũ trụ theo Sáng thế ký là 13,743 tỷ năm. Điều này là tương hợp với phát hiện của khoa học rằng tuổi thọ của vũ trụ khoảng 13,65 đến 13,89 tỷ năm về trước.
Thời điểm tạo ra mặt trời: Mặt trời được tạo ra vào thời điểm cuối cùng của ngày sáng tạo thứ tư, vì thế nó có tuổi thọ khoảng 4,79 tỷ năm. Nó tương hợp với nhận thức của khoa học hiện tại về tuổi thọ của mặt trời từ 4,57 đến 4,8 tỷ năm.
Loài người xuất hiện: Theo đoạn văn được trích từ Tractate Sanhedrin, loài người được Thiên Chúa tạo ra từ 10AM đến 11AM của ngày thứ 6, có nghĩa là nó cách thời điểm chấm dứt thời gian sáng tạo 4 giờ, tương ứng với việc loài người xuất hiện cách đây khoảng 426 triệu năm. Điều này tương hợp với các phát hiện về các di tích văn minh tiền sử, chứng minh rằng con người đã xuất hiện hàng trăm triệu năm về trước..
Tuy những điều mà Friedmann đã phát hiện ra cần phải có kiểm chứng, nhưng nó rất thú vị. Nó cho thấy rằng khi chúng ta tập trung vào những gì có thể quan sát và đo lường về vũ trụ, Kinh Thánh và khoa học là rất đồng thuận.
Nguồn: TH
- Tiểu hành tinh sắp lao vào trái đất bất ngờ chuyển hướng, bàn tay vô hình nào đã làm việc này?
- Cuốn sách “gối đầu giường” mà vua Càn Long mê mẩn, cư dân mạng Trung Quốc vừa mở ra đã thốt lên: Kinh dị quá!
- 16 đời luân hồi của người đàn ông Mỹ từng là Pha-ra-ông thời Ai Cập cổ đại