Bản thảo Voynich là một trong những tài liệu huyền bí nhất trên thế giới. Các nhà khoa học mới đây đã tiết lộ điểm bất ngờ, giúp giải mã cuốn sách 600 năm tuổi này.
Bản thảo Voynich. – Nguồn ảnh: vtv.vn
“Bản thảo Voynich” là một trong những cuốn sách bí ẩn nhất thế giới
Được biết đến vào khoảng những năm 1404-1438. Tên cuốn sách được đặt theo tên của ông Wilfrid Voynich, một nhà buôn sách cổ người Ba Lan đã mua nó tại Italia vào năm 1912.
Michael Wilfrid Voynich người phát hiện ra bản thảo bí ẩn trên. – Ảnh: khoahoc.tv
Voynich gồm 240 trang bằng da thuộc, được viết bằng loại ngôn ngữ rất khó hiểu, chứa rất nhiều hình vẽ vật thể như cây cối, thiết bị thí nghiệm cổ xưa, ký hiệu chiêm tinh liên quan đến nhiều lĩnh vực giống như y khoa, sinh học, hóa học, vũ trụ…
Toàn bộ cuốn sách sử dụng khoảng 23-40 ký tự khác nhau, và các loại hình minh họa khác nhau cho thấy văn bản được chia thành sáu chương. Chương đầu tiên dài tối đa 130 trang, là một chương về thực vật học, trong đó có mô tả chi tiết về 113 loại của hoa thực vật, Nhưng những loài thực vật này cũng chưa được biết đến.
Chương thứ hai là một biểu đồ chiêm tinh dài 26 trang, với một số lượng lớn các hình tròn và đồng tâm, và một số dấu hiệu của các chòm sao. Chương thứ ba nói về khoa học sinh học, chủ yếu có hình vẽ một số phụ nữ khỏa thân đang chơi trong bể bơi có ống.
Một trang bản thảo Michael Wilfrid Voynich bí ẩn. – Ảnh: khoahoc.tv
Chương 4, Triết học vũ trụ, có các phần phụ trang ấn tượng với các biểu đồ hình tròn thể hiện các tính chất nhất định của vũ trụ. Chương thứ năm là dược phẩm, với hơn 100 bản vẽ về các loại thảo mộc phụ, thân rễ, bột thuốc, rượu thuốc và thuốc. Chương cuối cùng tên là Ngôi sao, là phần thần bí nhất, gồm 23 đoạn văn, chia thành các đoạn ngắn, mỗi đoạn được đánh dấu một ngôi sao, có thể thấy một số hình minh họa trong sách chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Đông.
Những giải thuyết khác nhau
Khoảng một trăm năm sau, cuốn sách được bán cho Hoàng đế La Mã Rudolf II bởi con trai út của một nhà chiêm tinh người Anh. Nhưng sau đó nó đã được chuyển giao trong tay của nhiều nhà giả kim khác nhau, cho đến khi nó được phát hiện bởi Voynich, và cuốn sách này được coi là có tên.
Trong thời kỳ này, nhiều nhà khoa học, nhà sinh vật học, dược sĩ và những người khác đã bị ám ảnh bởi nó. Nhiều người cho rằng nó được viết bằng một loại mật mã nào đó, nhưng chưa ai tìm ra cách giải mã nó. Một số người cảm thấy rằng nó sử dụng một ngôn ngữ được xây dựng, nghĩa là một ngôn ngữ được lập trình và phát minh có chủ ý hơn là được hình thành một cách tự nhiên.
Một giả thuyết khác cho rằng đó là một trò lừa bịp, bản thảo có thể được hoàn thành bất cứ lúc nào sau khi phát minh ra giấy da, và mục đích của tác giả cũng có thể xảy ra.
Một số nhà ngôn ngữ học thậm chí đã tìm kiếm văn bản được ghi trong cuốn sách này, mặc dù họ không tìm thấy sự phù hợp với các ngôn ngữ hiện có trên thế giới, nhưng họ biết rằng nó không được viết một cách ngẫu nhiên theo quy luật phát triển ngôn ngữ và logic mạnh mẽ.
Nhưng đó là loại văn bản gì? Người đầu tiên tuyên bố đã bẻ khóa bản thảo Voynich xuất hiện vào năm 1921. Newbold, giáo sư tại Đại học Pennsylvania ở Hoa Kỳ, tuyên bố rằng các chữ cái trong bản thảo Voynich chứa các nét nhỏ chỉ có thể nhìn thấy khi được phóng to và các nét này là cách viết tắt của tiếng Hy Lạp cổ đại.
Dựa trên các lần đọc mật mã, Newbold kết luận rằng bản thảo được viết bởi nhà triết học thế kỷ 13, Bacon để mô tả những khám phá của ông, chẳng hạn như kính hiển vi. Nhưng trong vòng một thập kỷ, các đối thủ đã bác bỏ tuyên bố của Newbold, chứng minh rằng những nét nhỏ được cho là trong các chữ cái thực sự là những vết nứt tự nhiên trên mực.
Sau đó, trong Thế chiến thứ nhất và Thế chiến thứ hai, nhiều nhà mật mã nổi tiếng cũng muốn giải mã cuốn sách này nhưng họ không thể thực hiện được. Trong quá khứ, các nhà mật mã học giỏi nhất, bao gồm cả Alan Turing, vẫn không thể giải thích những thông điệp được ghi chép bằng loại mã phức tạp trong cuốn sách Trung Cổ này. Thiên tài toán học người Anh Alan Turing là người từng giải mã thành công máy Enigma – thiết bị được phát xít Đức sử dụng để mã hoá những thông điệp quan trọng như ý đồ tác chiến, vị trí đặt tàu, thời gian bắt đầu chiến dịch…
Alan Turing là một trong những nhà toán học và mật mã học nổi tiếng nhất lịch sử. Ảnh Britanica.
Nhiều chuyên gia khác nhau nhận định rằng bản thảo Voynich là “văn bản bí ẩn nhất thế giới”. Theo cách lý giải của nhiều người, nó chứa các mật mã, phép thuật, tin nhắn của người ngoài hành tinh…
Tiến sĩ Chaicher, nhà ngôn ngữ học tại Đại học Bristol ở Vương quốc Anh, đã tham khảo nhiều bản viết tay khác nhau vào thời Trung cổ và sử dụng tiếng Ả Rập để giải mã ý nghĩa bí ẩn trong các bản thảo. Ông tuyên bố đã giải mã thành công Mật mã của cuốn sách này, bản thảo này được viết bằng ngôn ngữ Proto-Romanic. Các ngôn ngữ Proto-Romance phổ biến ở Địa Trung Hải trong thời Trung Cổ.
Bí ẩn đã được giải mã
Mãi đến năm 2014, một bước đột phá lớn cuối cùng đã được mở ra. Không phải Alan Turing thuở đó, phải đến ngày nay, nhà ngôn ngữ học Gerard Cheshire mới giải thích được thông điệp bị ẩn giấu. Theo ông, đoạn ghi chép trên không thể giải mã vì nó… không phải mật mã. Thực tế, đó là một phiên bản nguyên thuỷ của những ngôn ngữ thuộc nhóm Roman như tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ý.
Chân dung tiến sĩ Gerard Cheshire, người giải mã thành công bản thảo Voynich. Ảnh Academic.
Tiến sĩ tuyên bố bản thảo Voynich là ví dụ duy nhất cho ngôn ngữ Ischia, một hòn đảo núi lửa ở Vịnh Naples – nơi lâu đài Aragonese của Nữ hoàng Maria toạ lạc. Bản thảo sử dụng ngôn ngữ phát sinh từ sự pha trộn tiếng Latin, hoặc Vulgar Latin, với các ngôn ngữ Địa Trung Hải trong thời kỳ đầu Trung Cổ, sau sự sụp đổ của Đế chế La Mã.
Do đó, loại ngôn ngữ này có nét tương đồng với nhóm Roman, bao gồm tiếng Ý và Pháp. Ví dụ, cụm từ “orla la”, nghĩa là “gần như mất kiên nhẫn”, được sử dụng để mô tả cảnh người mẹ đang tắm cho con có thể là từ gốc của cụm cảm thán “oh la la” phổ biến trong tiếng Pháp.
Tương tự như vậy, cụm “oleios” trong bản thảo gần giống với “olei” – “trơn trượt” trong tiếng Bồ Đào Nha. Trong khi “tolora”, nghĩa là “ngu ngốc”, hẳn có ảnh hưởng đến từ “tozos” của xứ Catalan. Tiến sĩ Cheshire cho biết: “Thuộc nhóm Roman nguyên thuỷ, bản thảo Voynich là tài liệu duy nhất ghi chép loại ngôn ngữ vốn dành cho người bình dân này”.
“Tại Ischia, nó được dùng tại các vùng bị cô lập về địa lý và văn hoá, vì vậy được Nữ hoàng Maria sử dụng”, ông cho biết thêm. “Dù bà thành thạo tiếng Latin”. “Quá ồn ào”, “trơn trượt” và “mất kiên nhẫn“ là những chú thích cho một cảnh tắm rửa, theo mô tả trên bản thảo Voynich.
Văn bản bí ẩn Voynich cuối cùng đã có người giải mã thành công. – Ảnh: soundofhope.org
Và cuốn sách dày 240 trang này được các nữ tu Dominican thực hiện theo yêu cầu từ Nữ hoàng Maria xứ Castille – cô của Nữ hoàng Anh Catherine. Tiến sĩ Chachel giải mã rằng tác giả là một nữ tu vào thời điểm đó, người đã bào chế các phương thuốc thảo mộc, thuốc tắm và sử dụng thuật chiêm tinh cho Maria xứ Castile và Nữ hoàng Aragorn.
Giải mã thành công bản thảo đã mở ra cơ hội quan sát cuộc sống hàng ngày của phụ nữ Châu Âu thời Trung Cổ. Ngoài ra, bản thảo còn ghi chép các phương thuốc thảo dược, tắm trị liệu và bài đọc chiêm tinh, chủ yếu về cơ thể và tinh thần phụ nữ, việc sinh sản và nuôi dạy con cái.
Chân dung nữ tu. – Ảnh: Internet
Một bản đồ cũng được vẽ lại trong các trang sách, cho thấy chi tiết cuộc giải cứu do Nữ hoàng Maria chỉ đạo. Cuộc giải cứu nhắm tới những người sống sót sau vụ núi lửa phun trào ngày 4/2/1444.
Nó cũng bao gồm thông tin về tâm lý sau sinh của phụ nữ và nuôi dạy con cái. Bản thảo cũng bao gồm một bản đồ ghi lại sứ mệnh giải cứu Nữ hoàng Aragorn sau vụ phun trào của núi lửa Biển Tyrrhenian trên bờ biển phía tây của Ý vào năm 1444 .
Tiến sĩ Gerard Cheshire nhấn mạnh nó là sự kết hợp của các biểu tượng lạ và quen thuộc không có dấu chấm câu chuyên dụng, mặc dù một số chữ cái có các biến thể ký hiệu để chỉ dấu chấm câu hoặc ngữ âm. Tất cả các chữ cái đều viết thường và không có phụ âm kép. Nó cũng bao gồm một số từ và chữ viết tắt bằng tiếng Latin. Ví dụ như từ “palina” là một cây gậy để đo độ sâu của nước, đôi khi được gọi là que stadia hoặc thước kẻ.
Tiến sĩ Cheshire cho biết đã trải qua khoảnh khắc “eureka” khi giải mã, sau đó là hoài nghi và phấn khích. “Không có gì quá đáng khi nói tác phẩm này đại diện cho một trong những cột mốc quan trọng nhất của nhóm ngôn ngữ Roman”.
Hiện bản thảo được lưu trữ tại Đại học Yale, trong thư viện Beinecke dành riêng cho những cuốn sách quý hiếm. Nghiên cứu trên của Gerard Cheshire được công bố trên tạp chí Romance Studies.
Sau khi thiết lập ngôn ngữ được sử dụng, tiến sĩ Cheshire hiện đã có thể bắt đầu hiểu nội dung của bản thảo. Ông nói thêm, những gì nó tiết lộ thậm chí còn tuyệt vời hơn cả những huyền thoại và tưởng tượng của chúng ta vẫn nghĩ đến. Tiến sĩ Cheshire đã có kế hoạch dịch toàn bộ bản thảo. Tuy nhiên, điều này có thể mất khá nhiều thời gian vì bản thảo khá dài.
Nguồn: VDH
- UFO khổng lồ xuất hiện trên bầu trời New Zealand, nhiều giáo viên và 400 học sinh đồng loạt chứng kiến
- Sudan mới là nơi có nhiều kim tự tháp nhất thế giới, hơn cả Ai Cập
- Chiêm ngưỡng vẻ đẹp phụ nữ Việt thế kỷ trước qua ống kính nhiếp ảnh gia nước ngoài