Trầm cảm có thể là một tình trạng bệnh đáng sợ đối với nhiều người. May mắn thay, các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới đang liên tục nghiên cứu các phương án điều trị mới. Cấy ghép não bằng một thiết bị được thiết kế để chống trầm cảm là một trong các phương pháp đáng quan tâm.
Cấy ghép não đầu tiên trên thế giới điều trị thành công chứng trầm cảm ở bệnh nhân kháng thuốc Hình ảnh dây dẫn gắn vào não bộ để điều trị bệnh trầm cảm ở bệnh nhân kháng thuốc: Thiết bị có một đầu dẫn (màu xanh) trong hạch hạnh nhân để phát hiện dấu ấn sinh học và đầu còn lại (màu đỏ) tạo ra lượng điện cực nhỏ để kích thích. (Ken Probst / UCSF)
Nhìn chung, có tới một phần ba số người bị trầm cảm không đáp ứng hoặc trở nên kháng với thuốc điều trị. Không có loại thuốc hoặc liệu pháp nào có vẻ hữu ích. Đối với những người mắc chứng trầm cảm kháng thuốc như vậy, tương lai có thể đặc biệt ảm đạm, vô phương cứu chữa như hiện nay nhiều người vẫn gọi.
Mặc dù ý tưởng cấy ghép một thiết bị nhỏ vào hộp sọ của chúng ta nghe có vẻ đáng sợ đối với một số người, nhưng kích thích não sâu đã từng có quá khứ thành công trong các chứng rối loạn não khác như bệnh Parkinson và động kinh.
Kích thích não sâu điều trị bệnh Parkinson
Trong kích thích não sâu (tên tiếng anh là Deep Brain Stimulation và viết tắt là DBS), các điện cực được đặt vào một vùng cụ thể của não, tùy thuộc vào các triệu chứng mà người bệnh đang được điều trị.
Các điện cực được đặt ở cả hai bên trái và phải của não thông qua các lỗ nhỏ được tạo ra trên đỉnh hộp sọ. Các điện cực được nối với nhau bằng những sợi dây dài đi dưới da và xuống cổ với một máy kích thích chạy bằng pin được đặt dưới da ngực.
Khi được bật, bộ kích thích sẽ gửi các xung điện để chặn các tín hiệu thần kinh bị lỗi gây ra run, cứng và các triệu chứng khác.
Hệ thống DBS có 3 phần được cấy vào bên trong cơ thể: Neurostimulator là một sợi dây được bọc với một số điện cực ở đầu để dẫn các xung điện đến mô não, Lead (Đạo trình) là một sợi dây được bọc với một số điện cực ở đầu để dẫn các xung điện đến mô não; Extension là một sợi dây cách điện kết nối dây dẫn với bộ kích thích thần kinh.
Người bệnh sử dụng bộ điều khiển cầm tay để bật và tắt hệ thống DBS. Bác sĩ lập trình cài đặt máy kích thích bằng thiết bị không dây. Các thông số cài đặt kích thích có thể được điều chỉnh khi tình trạng của bệnh nhân thay đổi theo thời gian.
DBS rất hiệu quả trong việc giảm rối loạn vận động, các cử động run mất kiểm soát do dùng thuốc levadopa liều cao. Thông thường, DBS sẽ giúp làm cho các triệu chứng ít nghiêm trọng hơn để có thể sử dụng liều thuốc thấp hơn.
Trong bệnh Parkinson, các phần của hạch não nền (basal ganglia) bị kích thích dưới mức hoặc quá mức. Chuyển động bình thường được thay thế bằng run và cứng. Khi thực hiện DBS ở các hạch não nền cụ thể sẽ làm thay đổi các mạch điện bất thường và giúp ổn định các vòng phản hồi, do đó làm giảm các triệu chứng.
Các điện cực có thể được đặt trong các vùng khác nhau của não:
Nhân dưới đồi thị (STN) – có hiệu quả đối với chứng run, chậm chạp, cứng đờ, loạn trương lực cơ và rối loạn vận động. Thường được sử dụng nhất để điều trị bệnh Parkinson.
Thalamus (VIM) – có hiệu quả đối với chứng run. Nó thường được sử dụng để điều trị chứng run vô căn.
Globus pallidus (GPi) – hiệu quả cho chứng run, chậm chạp, cứng đờ, loạn trương lực cơ và rối loạn vận động. Vị trí này được sử dụng để điều trị chứng loạn trương lực cơ và bệnh Parkinson.
Trường hợp Kích thích não sâu điều trị bệnh trầm cảm của Đại học California
Sarah là một phụ nữ 36 tuổi bị trầm cảm nặng và không thể điều trị được từ khi còn nhỏ. May mắn thay, Sarah đã có thể tham gia vào một nghiên cứu điển hình với nhóm nghiên cứu khoa học thần kinh tại Đại học California, San Francisco (UCSF). Dự án của nhóm là nghiên cứu các phương pháp kích thích não sâu có khả năng làm giảm các triệu chứng trầm cảm.
Một sự can thiệp mới đã mang lại sự nhẹ nhõm đáng kể cho Sarah và có thể mang lại hy vọng cho những người giống như cô ấy. Phương pháp này yêu cầu một ‘máy tạo nhịp não’ được thiết kế riêng cho mỗi người.
Nhưng trầm cảm phức tạp hơn đáng kể so với bệnh parkinson và động kinh. Cho đến nay, các kết quả về kích thích não sâu đối với chứng trầm cảm nhắm vào các vùng cụ thể của não – chẳng hạn như vùng Brodmann 25 – vẫn còn chưa chắc chắn và hầu hết là không mấy sáng sủa.
Tuy nhiên, nhóm UCSF đã thực hiện một thay đổi đáng kể đối với loại liệu pháp này.
Quá trình nghiên cứu cấy ghép não
Thay vì áp dụng phương pháp điều trị kích thích não giống nhau cho tất cả mọi người, các nhà nghiên cứu đã theo dõi thủ công nơi xuất hiện chứng trầm cảm của Sarah trong não.
Họ đã xác định được một dấu ấn sinh học – trong trường hợp này là một dạng sóng não cụ thể – chưa được xác định trong chứng rối loạn trầm cảm nghiêm trọng trước đây, và họ dựa vào đó để chế tạo máy kích thích não, nó chỉ kích thích khi nào và ở nơi dấu ấn sinh học được biểu hiện của một cá nhân riêng biệt.
Nhóm nghiên cứu đã đặt một dây dẫn điện cực vào vùng não nơi phát hiện dấu ấn sinh học và một dây dẫn thứ hai vào nơi có ‘mạch trầm cảm’ của Sarah. Các nhà khoa học đã mất một thời gian để tìm ra vị trí tốt nhất có thể giảm triệu chứng trầm cảm. Khi đưa dây có gắn thiết bị vào não, dây dẫn đầu tiên sẽ phát hiện dấu ấn sinh học và dây dẫn thứ hai sẽ tạo ra một lượng điện cực nhỏ trong sáu giây sâu trong vùng não.
Tác giả đứng đầu nghiên cứu, bác sĩ tâm thần Katherine Scangos của UCSF cho biết: “Hiệu quả của liệu pháp này cho thấy chúng tôi không chỉ xác định đúng mạch não và dấu ấn sinh học mà còn có thể tái tạo nó ở một giai đoạn hoàn toàn khác, giai đoạn sau của cuộc thử nghiệm bằng cách sử dụng thiết bị cấy ghép”.
“Thành công này tự nó là một tiến bộ đáng kinh ngạc trong kiến thức của chúng tôi về chức năng não là nguyên nhân gây ra bệnh tâm thần”.
Bây giờ, chúng ta thực sự cần nhấn mạnh rằng kết quả thành công mới này chỉ đạt được ở một bệnh nhân cho đến nay. Đã có rất nhiều nghiên cứu khác xem xét việc kích thích não sâu, đã không có kết quả trong các thử nghiệm, và chúng ta vẫn chưa biết phương pháp này sẽ hoạt động như thế nào theo thời gian.
Biểu hiện thành công ở bệnh nhân
Nhưng đối với Sarah, những thay đổi đã rất lớn. Cô nói: “Trong vài tháng đầu, cơn trầm cảm giảm đi quá đột ngột và tôi không chắc liệu nó có kéo dài hay không.
“Nhưng nó đã kéo dài. Và tôi nhận ra rằng thiết bị thực sự giúp tăng cường liệu pháp và tôi đã học được cách tự chăm sóc bản thân”.
Sarah đang làm việc trong khu vườn của mình vào ngày 25/9/2021. (John Lok / UCSF 2021)
Thật thú vị, chỉ kích thích não một khi có xuất hiện các triệu chứng trầm cảm – hoặc trong trường hợp này là dấu ấn sinh học – cũng là một cách mới để sử dụng kích thích não sâu trong việc điều trị bệnh trầm cảm.
Trong các nghiên cứu trước đây, việc kích thích não sâu được thực hiện liên tục theo những khoảng thời gian đã định sẵn, và không phải chỉ hoạt động khi não có phát sinh trầm cảm cụ thể. Điều này tự nó có thể là một thay đổi lớn để làm cho kỹ thuật thành công hơn.
Nhưng dấu ấn sinh học này rất có thể không phổ biến, có nghĩa là các nhà nghiên cứu sẽ cần phải tìm phiên bản dấu ấn sinh học của từng bệnh nhân cụ thể để có thể điều trị họ theo cách tương tự.
Các nghiên cứu tiếp theo
Nhóm nghiên cứu đã nhận được đăng ký từ nhiều bệnh nhân hơn, các nhà nghiên cứu sẽ tìm hiểu xem liệu họ có thể tìm thấy các dấu hiệu trầm cảm được cá nhân hóa và cung cấp cho họ ‘máy tạo nhịp não’ chuyên dụng của riêng họ hay không.
Scangos cho biết: “Chúng ta cần xem xét các tín hiệu mạch này khác nhau như thế nào trên các bệnh nhân và lặp lại công việc này nhiều lần. Và chúng ta cần xem liệu dấu ấn sinh học hoặc mạch não của một cá nhân có thay đổi theo thời gian khi quá trình điều trị tiếp tục hay không”.
Đây là sự khởi đầu của một thiết kế điều trị, và sẽ có rất nhiều thách thức trước khi đây là một lựa chọn tiềm năng cho những bệnh nhân không thuộc nhóm nghiên cứu. Nhưng đối với những người bị trầm cảm kháng trị, phương pháp điều trị cá nhân hóa này một ngày nào đó có thể là một phương án thú vị.
Nhà nghiên cứu tâm thần học Andrew Krystal, một thành viên của nhóm nghiên cứu cho biết: “Chúng tôi đã phát triển một phương pháp tiếp cận y học chính xác đã quản lý thành công chứng trầm cảm kháng thuốc của bệnh nhân bằng cách xác định và điều chỉnh mạch trong não có liên quan duy nhất đến các triệu chứng của cô ấy.
“Nghiên cứu này chỉ ra con đường dẫn đến một mô hình mới rất cần thiết trong điều trị tâm thần học”.
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí Nature Medicine.
Nguồn: NTDVN
- Giải mã thành công thông điệp bí ẩn của kẻ sát nhân hàng loạt “Zodiac”
- Nga tạo động cơ lượng tử tốc độ 1000 km/giây, lên mặt trăng mất 4,6 giờ
- Trí tuệ nhân tạo giúp phục dựng thành công khuôn mặt của pharaoh Ai Cập từ xác ướp