Thời cổ đại, trên đầu các vị hòa thượng đều có các nốt chấm tròn, còn giờ sao lại không có?

Thời cổ đại, trên đầu các vị hòa thượng đều có các nốt chấm tròn, tại sao hòa thượng thời nay lại không có? Lý do giải thích cho việc này là gì?

Nguồn ảnh: menback

Vào thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, tại một bộ tộc Thích Ca ở biên giới Nepal và Ấn Độ, Thái tử Gautama Siddhartha (Tất đạt đa Cồ đàm) xuất gia và tu hành. Bảy năm sau, Ngài đã giác ngộ và trở thành một vị Phật.

Phật giáo tin rằng thế giới là huyễn hoặc và cuộc sống là đau khổ, chỉ bằng cách gạt bỏ mọi lo lắng, dục vọng và tu hành thành Phật quả thì mới có thể đạt được hạnh phúc vĩnh viễn.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thời gian đầu thuyết pháp đã tự tay xuống tóc cho Tôn giả Ca Diếp và 5 người khác, ngài đã tự tay cạo tóc của họ và bày tỏ rằng Ngài sẽ nhận họ làm đệ tử của mình.

Về việc cắt tóc của nhà sư, thực ra nó có ba ý nghĩa.

Đầu tiên, theo Phật giáo, tóc tượng trưng cho vô số việc rắc rối, phiễn não và những thói hư tật xấu, việc cắt bỏ tóc tương đương với việc loại bỏ những phiền não và những ma tính trong con người.

Thứ hai, cắt tóc tương đương với việc loại bỏ sự kiêu ngạo và những lo toan của thế gian; loại bỏ mọi mối lo toan, phiền nào của thế tục để toàn tâm toàn ý thực hành tu luyện.

Người cổ đại thường rất coi trọng mái tóc, vì họ tin rằng tóc là của cha mẹ ban cho, phải được bảo vệ, không được để hư tổn, nếu không sẽ bất hiếu với cha mẹ. Tuy nhiên, Phật giáo yêu cầu phải cắt bỏ những mối rang buộc không cần thiết với gia đình, vì vậy cần phải cạo tóc để đoạt tuyệt với tình thân quyến. Tấm lòng của người đi tu không chỉ giới hạn chỉ ở gia đình, mà còn phổ độ hết thảy các chúng sinh.

Thứ ba, để phân biệt với các giáo phái khác ở Ấn Độ. Ấn Độ các giáo phái ở khắp mọi nơi, khi người ta nhìn thấy một người cạo trọc đầu là biết người đó đi theo đạo Phật. Vì vậy, cạo đầu trở thành một nghi thức gia nhập Phật giáo.

Khi Phật giáo lần đầu tiên du nhập vào Trung Quốc, các nghi lễ khác chưa được phát triển, vì vậy chỉ cần bạn cạo tóc và mặc một loại vải thô tương tự như áo cà sa lên người, bạn có thể trở thành một nhà sư hay một hòa thượng.

Tuy nhiên, một số nhà sư có vết sẹo do chấm hương đốt trên đầu, đây là một dấu hiệu để nhận biết giữa các nhà sư bên ngoài với các nhà sư ở Hán địa. Tuy nhiên, nhiều người lầm tưởng rằng tất cả các nhà sư đều cần đốt những chấm hình tròn trên đầu.

Ngoài một số phim điện ảnh hay phim truyền hình dựng lại các câu chuyện đời Đường, nhà Tống xuất hiện hình ảnh các nhà sư có những chấm tròn trên đầu, ai có chút hiểu biết về lịch sử Phật giáo cũng thấy nực cười và hiểu rằng nhiều người đã từng bị hình ảnh của nhà sư trên màn hình làm cho hiểu lầm.

Thực ra đạo Phật không có quy định đặc thù về những chấm tròn trên đỉnh đầu. Ngoại trừ các nhà sư ở Hán địa, các nhà sư từ khắp nơi trên thế giới và các dân tộc thiểu số ở Trung Quốc cũng không nhìn thấy những chấm tròn trên đỉnh đầu; ngay cả các nhà sư người Hán, những người đã xuất gia trước thời nhà Tống, cũng sẽ không có những chấm tròn trên đầu.




Nguồn ảnh: lichngaytot

Vậy chấm tròn trên đầu bắt đầu từ khi nào?

Chấm tròn trên đầu bắt đầu từ thời nhà Nguyên. Vào những năm đầu của triều đại nhà Nguyên, có một nhà sư Chí Đức (1235-1322) được hoàng đế của triều đại nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt tôn kính. Để thể hiện lòng thành kính tín ngưỡng đối với Phật Pháp, hòa thượng này đã dùng hương nóng chấm lên đỉnh đầu, tạo nên các chấm đen. Hành động này của ông lập tức nhận được sự tán thưởng của Hoàng đế. Vậy là phát minh này được lan truyền âm thầm từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Đây có thể được mô tả là một hành động xấu gây hại cho cơ thể, và nó là một sản phẩm đặc trưng riêng của văn hóa Phật giáo Hán địa. Qua đây, chúng ta cũng có thể thấy được một chút đặc trưng của dòng văn hóa Phật giáo vùng đất người Hán.

Hòa thượng Chí Đức, người đã phát minh ra những vết chấm tròn trên đầu (thường được gọi là “động hương bỏng”), hoàn toàn không phải là một nhà Phật học, nhưng phát minh nhỏ này của ông lại có sức lan tỏa và sâu rộng.

Chấm tròn trên đầu nhà sư giống như một biểu tượng thân phận và địa vị. Sau vài tháng huấn luyện tân sinh, các tiểu hòa thượng mới cạo trọc đầu sẽ làm một bài trắc nghiệm đơn giản. Sau khi vượt qua, lão hòa thượng trong chùa sẽ dùng cây hương chấm một vết đầu tiên lên đầu, gọi là “thanh tâm”, với ý nghĩa vượt qua cửa ải “thanh tâm quả dục”.

Trong một hoặc hai năm tới, nếu những tiểu hòa thượng này tu hành tốt, “thanh tâm quả dục”, tu bỏ đi nhiều những ràng buộc ở thế gian, và đọc kinh không còn nhiều nhân tâm, họ sẽ đủ điều kiện để nhận được chấm hương thứ hai.

Nói chung, nếu mọi việc suôn sẻ, hầu hết các nhà sư lớn tuổi trong chùa có thể có năm hoặc sáu chấm hương trên đầu; trụ trì của các ngôi chùa quan trọng như Thiếu Lâm Tự, Đền Hồi giáo hoặc Long Phát Đường có thể có tám hoặc chín chấm hương trên đầu, đây được gọi là  “hòa thượng cao cấp” hoặc “hòa thượng đặc cấp”.

Tuy nhiên, chấm tròn thứ mười này không phải là hòa thượng bình thường có được, ngoại trừ Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma và Lục Tổ, không có quá năm nhà sư có mười chấm hương. Chấm tròn không chỉ có trên đầu, mà còn trên cơ thể, chẳng hạn như cánh tay.


Vậy vì sao nét đặc trưng này đến ngày nay lại dần biến mất?

Trên thực tế, khi chấm hương, một khi người chấm không khống chế được lực tay, thì sẽ tạo nên tổn thương cho người được chấm.

Vào ngày chấm hương, trên đầu người được chấm sẽ bị sung tấy, có hại cho cơ thể của người đó, chính vì vậy cách làm này dần bị bỏ đi.

Tuy nhiên, những hòa thượng tu hành chân chính thực ra không cần dựa vào những chấm tròn trên đầu này để chứng minh rằng họ đã thành tâm một lòng hướng đến Đức Phật.

Xét cho cùng, mắt của Thần giống như điện, Thần và Phật ở khắp mọi nơi, làm sao có thể không biết tâm của một người có tôn kính Thần và Phật hay không.

Nguồn: VDH

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *