Đường Tăng thật trong lịch sử đã vượt qua những đại nạn nào mới thỉnh được chân Kinh?

“Tây Du Ký”, một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc, mô tả câu chuyện về hòa thượng Đường Huyền Trang đi Tây Thiên thỉnh kinh, được lưu truyền thiên cổ. Theo những ghi chép trong sách cổ thì đúng là có sự tích Đường Huyền Trang đi Ấn Độ lấy kinh. Trên đường đi, ông xác thực đã gặp rất nhiều chuyện thần kỳ…

Câu chuyện Huyền Trang đi thỉnh kinh được rất nhiều người biết đến, từ người già đến trẻ em đều có thể kể lại một cách trôi chảy. Điều lạ là Huyền Trang không có chút công năng đặc dị nào nhưng cuối cùng lại lấy được chân kinh. Luận về thần thông, ông kém Tôn Ngộ Không cả vạn dặm. Tuy nhiên có một điểm mà Ngộ Không không thể bằng ông. Vậy điều gì khiến Huyền Trang dù không có bất kỳ loại thần thông nào mà vẫn có thể vượt qua chín chín tám mươi mốt nạn để đi đến Thiên Trúc cuối cùng thỉnh đươch chân kinh? Kỳ thực, đó chính là nhờ vào chính tín kiên định của Huyền Trang đối với Phật Pháp.

Còn Tôn Ngộ Không, từng được phong làm quan trông coi ngựa – Bật mã ôn, nhưng bởi vì thấy chức vị thấp nên đã sinh ra bất mãn mà đại náo thiên cung. Trên đường đi thỉnh kinh, Ngộ Không khó kiềm chế được tính nóng nảy, hơi gặp một chút việc không vừa ý liền nổi trận lôi đình. Hơn nữa, tu Phật giảng về tâm tính. Đại sư Huyền Trang chỉ dựa vào chính tín với Phật Pháp, nguyện từ bỏ hết thảy mọi thứ thế gian, vào thời khắc sinh tử cũng chưa từng thay tâm đổi nguyện. Chính bởi niềm tin kiên định vào Phật Pháp mà trên đường lấy kinh ông liên tục triển hiện ra thần tích, cuối cùng lấy được chân kinh.

Huyền Trang là một hòa thượng Tam Tạng nổi tiếng thời nhà Đường, tên tục là Trần Y, người Lạc Dương. Huyền Trang là pháp danh của ông. Người đời sau thường gọi ông với tên hiệu thân thuộc là Đường Tăng. Vì mong muốn nghiên cứu bản gốc của kinh điển Phật giáo, Đường Tăng đã đi về phía Tây 5 vạn dặm để đến nước Thiên Trúc cầu Pháp, lộ trình kéo dài 19 năm ròng. Nhận lệnh của Hoàng đế Đường Thái Tông, Huyền Trang đã ghi lại quá trình đi về phía Tây lấy kinh thành một cuốn sách gọi là “Đại Đường Tây Vực ký”.




Cuốn sách này do Huyền Trang kể lại và Biện Cơ ghi chép. Nội dung cuốn sách rất khớp với lịch sử cùng những phát hiện khảo cổ. Tính xác thực của cuốn sách đã được người đời công nhận rộng rãi.

“Tây Du Ký”, một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc, mô tả câu chuyện về hòa thượng Đường Huyền Trang đi Tây Thiên thỉnh kinh, được lưu truyền thiên cổ. Theo những ghi chép trong sách cổ thì đúng là có sự tích Đường Huyền Trang đi Ấn Độ lấy kinh. Trên đường đi, ông xác thực đã gặp rất nhiều chuyện thần kỳ.

Cả sách “Cựu Đường thư” và “Tân Đường thư” đều có ghi lại sự tích này. Tuy nhiên nội dung đã được lược ngắn lại. Hai đệ tử của Huyền Trang sau này là Tuệ Lập và Ngạn Tông căn cứ theo lời kể của Huyền Trang đã ghi lại thành cuốn sách ‘Đại từ ân tự tam tàng pháp sư truyện’ gọi tắt là ‘Từ ân truyện’, ghi lại được tương đối chi tiết hơn.

‘Thiên lý mã’ của Thích môn
Theo “Cựu Đường thư” ghi chép: “Đường Huyền Trang họ Trần, người Yển Sư Lạc Châu. Ông xuất gia vào năm cuối của niên đại Đại Nghiệp, thông hiểu kinh luận, thường nói các bản kinh sách đã dịch có nhiều sai sót, do vậy bản thân muốn đi Tây Vực, tìm kiếm bản gốc để tham khảo và kiểm nghiệm. Thế là, vào năm Trinh Quán thứ nhất, ông đã theo các thương nhân đi Tây Vực”.




Ngay từ khi còn nhỏ, Huyền Trang đã có những lĩnh ngộ phi thường đối với kinh Phật. Năm 13 tuổi, ông bắt đầu xuất gia ở Lạc Dương, khả năng lĩnh hội Phật học của ông rất nhanh tiến đến cảnh giới cao thâm. Vì vậy, Huyền Trang đã đi vân du khắp nơi để học hỏi, tìm người cùng thảo luận và nghiên cứu Phật Pháp. Ông được ca ngợi là “Thiên lý mã của Thích môn”.

Đương thời kinh Phật đều là những bản được phiên dịch, có nhiều bản dịch không đồng nhất, so sánh với nhau thì thấy có chỗ sai khác. Điều này khiến Huyền Trang cảm thấy hoang mang khi không có được sự giải đáp xác thực. Sau này có một vị tăng nhân Thiên Trúc nói cho ông biết, tại nước Thiên Trúc có một ngôi chùa tên là chùa Na Lạn Đà (Nālaṃdā vihāra), trong chùa có Pháp sư Giới Hiền (Śīlabhadra) giỏi giảng kinh điển Đại thừa Phật giáo là “Du già sư địa luận”. Nếu nghiên cứu hiểu rõ kinh này thì những nghi hoặc đều có thể được giải quyết. Thế là Huyền Trang liền hạ quyết tâm đến Tây Thiên cầu Pháp.

Lúc đó, pháp luật Đại Đường không cho phép tăng nhân đi ra khu vực bên ngoài chùa. Sau này, vào năm Trinh Quán thứ nhất, kinh thành gặp nạn đói, các tăng nhân mới được phép đi hóa duyên khất thực. Đường Tăng đã nhân cơ hội này lên đường nhằm hướng Tây thẳng tiến.

Đường Tăng lên đường nhằm hướng Tây thẳng tiến, quyết tâm đến Tây Thiên cầu Pháp (Ảnh minh hoạ: Shutterstock).




Đi về phía Tây bước qua đài Phong hỏa
Lúc ấy, mối quan hệ giữa nhà Đường và nước Đột Quyết ở phía Tây rất căng thẳng, đường đi Tây Vực vô cùng nguy hiểm, triều đình đã hạ lệnh không cho phép ai đi vào Tây Vực. Trên đường đi về hướng Tây, Huyền Trang không ngừng giảng giải lý do đi Tây Thiên cầu pháp cho các quan lại, tướng sĩ cản đường. Sự thành tâm thành ý và quyết tâm kiên định của ông đã khiến họ cảm động, cuối cùng đã để ông đi qua.

Ở biên cương Đại Đường thời đó cứ cách 100 dặm lại dựng một đài Phong hỏa, giữa các đài Phong hỏa là sa mạc, vô cùng khó đi. Sau khi ra khỏi Dương Quan, Huyền Trang phải đi qua 5 đài phong hỏa. Nếu muốn lấy nước thì chỉ có thể đến dưới đài phong hỏa lấy, bởi vì chỉ ở nơi đó mới có nước.

Huyền Trang đến đài phong hỏa thứ nhất, khi vừa chuẩn bị lấy nước thì có một mũi tên bắn tới trước mặt. Ông liền hô lớn đừng bắn tên, tôi là hòa thượng đến từ Trường An, đi Tây Thiên cầu Pháp. Thế là các binh sĩ liền đón ông vào thành.

Tướng sĩ vừa mới đến trấn thủ đài phong hỏa này tên là Vương Tường, cũng là một người tín Phật. Vương Tường liền sai người đi lấy nước cho Huyền Trang, đồng thời nói cho ông ở đài phong hỏa thứ 4, thủ thành là người thân thích của ông ta, tên là Vương Bá Lũng, người này sẽ giúp ông.

Đến đài phong hỏa thứ tư, Vương Bá Lũng nói với ông rằng: “Ông không đi tiếp được nữa, người trấn giữ đài phong hỏa thứ năm nhất định sẽ bắt giữ ông, tôi hiểu rõ người này”.




Vương Bá Lũng nói cho Huyền Trang biết, nhất định phải đi qua sa mạc bên cạnh, đến một nơi gọi là Dã Mã Tuyền, ở đó có một nguồn nước, phải tìm được nơi ấy thì mới có thể băng qua sa mạc được. Sau đó Vương Bá Lũng cũng giúp Huyền Trang đổ đầy túi nước lớn và Huyền Trang bắt đầu xuất phát.

Huyền Trang bị lạc trong sa mạc, tuy vậy ông vẫn nhất quyết đi về hướng Tây mong cầu được Pháp (Ảnh minh hoạ: Shutterstock).




Thần tích trên sa mạc
Theo sách “Từ ân truyện” miêu tả, ở sa mạc đó, trên không có chim bay, dưới không có dã thú, phải dựa vào phân của lạc đà và xương người chết làm dấu hiệu để nhận biết đường đi. Trong sa mạc còn thường xuyên có ảo ảnh “quỷ mị gió nóng” huyễn hóa ra, vô cùng đáng sợ.

Kết quả Huyền Trang không tìm được Dã Mã Tuyền, hơn nữa lúc đang uống nước còn lỡ tay đánh đổ túi nước khiến nước chảy hết ra ngoài. Trong sa mạc không có nước uống thì chắc chắn sẽ chết. Ông đành phải quay lại. Lúc này, ông đột nhiên nghĩ đến tâm nguyện mà bản thân đã phát ra trước khi xuất phát: “Lần này đi Tây Thiên cầu Pháp, không lấy được chân kinh thì quyết một bước cũng không quay về Đông”.

Ông liền nghĩ, đúng rồi, bản thân thà đi về phía Tây mà chết cũng không thể vì để sống tiếp mà quay trở về. Nghĩ vậy, Huyền Trang tiếp tục đi về phía Tây, đi 4 ngày 5 đêm mà không có nước uống, toàn thân ông nóng lên, phát sốt, khát đến mức không chịu đựng được, toàn thân không còn chút sức lực nào.

Ngay cả lúc ý thức của Huyền Trang không còn thanh tỉnh lắm, miệng ông vẫn không ngưng niệm kinh cầu nguyện Bồ Tát Quán Âm. Ông nói: “Đệ tử đi lấy kinh lần này, không vì danh, không vì lợi, chỉ nguyện lấy được chân kinh đại thừa trở về Đông Thổ, mong Bồ Tát Quán Âm gia trì”.

Cuối cùng ông đã hôn mê bất tỉnh. Đến đêm, một trận gió mát thổi tới, ông mới tỉnh lại, thể lực hồi phục được một phần. Ông muốn ngủ một giấc trong sa mạc.




Sách “Từ ân truyện” viết, ngay khi vừa chợp mắt, Huyền Trang liền mơ thấy một vị Thần vô cùng cao lớn, mặc áo giáp vàng đứng trước mặt, vị Thần nói với ông: “Ngủ cái gì. Chạy nhanh đi”. Thế là ông tỉnh dậy, nhìn thấy con ngựa ở trước mặt liền đứng dậy cưỡi lên lưng ngựa, con ngựa đột nhiên mất kiểm soát, chạy điên cuồng. Con ngựa chạy một mạch và đưa ông bến bên bờ suối, cứ như vậy Huyền Trang đã được cứu.

Khi Huyền Trang đi đến nước Kế Tân, bởi vì đường xá hiểm trở, lại có hổ báo xuất hiện, không thể nào đi qua được. Huyền Trang nghĩ không ra cách nào hay bèn khóa cửa phòng lại rồi ngồi xuống tĩnh tọa. Đến tối, ông mở cửa ra liền nhìn thấy một lão tăng mụn nhọt đầy mặt, ngồi ở trước giường, không biết là từ đâu đến.

Huyền Trang thi lễ bái kiến. Lão tăng liền truyền miệng cho ông một quyển “Đa tâm kinh”, rồi bảo Huyền Trang tự mình tụng niệm một lượt, bỗng thấy núi sông bằng phẳng, đường xá rộng rãi, hổ báo biệt tích, ma quỷ ẩn tàng.

Huyền Trang tự mình tụng niệm “Đa tâm kinh” bỗng thấy núi sông bằng phẳng, đường xá rộng rãi, hổ báo biệt tích, ma quỷ ẩn tàng (Ảnh minh hoạ: Shutterstock).




Gặp cường đạo
Trên đường hướng về Tây Thiên, Huyền Trang đi qua Yên Kỳ, Khố Xa vào Lăng Sơn. Ngọn núi này cao ngất trời mây, đỉnh núi quanh năm băng tuyết không tan, leo núi cực kỳ khó khăn, ban đêm chỉ có thể ngủ trên băng tuyết. Sau đó Huyền Trang lại leo núi Đại Tuyết Sơn còn khó khăn hơn cả Lăng Sơn. Cuối cùng sau hơn một năm rời khỏi Trường An, ông đã đến được miền Bắc nước Thiên Trúc.

Huyền Trang ở lại Bắc Thiên Trúc một thời gian ngắn, ông tiếp tục đi về hướng Trung Thiên Trúc, nơi có chùa Na Lạn Đà, giữa đường phải qua nước A Da Mục Khư (Ayamukha). Khi đó Huyền Trang phải ngồi thuyền xuôi theo dòng sông Hằng mà đi. Thuyền đi được nửa đường thì bỗng nhiên từ trong rừng cây hai bên bờ sông xuất hiện hơn chục chiếc thuyền cướp xông ra.

Mọi người nhìn thấy toán cướp ai nấy đều vô cùng sợ hãi, rất nhiều người mạo hiểm nhảy xuống nước hy vọng thoát nạn nhưng đều bị chết chìm. Bọn cướp vây quanh thuyền, yêu cầu mọi người đều phải cởi y phục ra, lục soát vơ vét của cải. Huyền Trang là một tăng nhân, không có thứ gì trên thân, thế nhưng khi trông thấy ông, chúng lại vô cùng vui mừng.

Bởi vì Huyền Trang tướng mạo cao lớn rất có phong thái, bọn cướp tin theo tà giáo, vào mùa thu hằng năm đều cần tìm một người đàn ông có diện mạo tốt để tế lễ, thế là chúng chuẩn bị hiến tế Huyền Trang.




Bọn cướp bắt đầu dựng đàn ở bên bờ sông. Huyền Trang không hề sợ hãi, ông ngồi đả tọa nhập định. Bọn cướp thấy sắc thái ông vô cùng an hoà nên cũng rất tôn kính ông.

Sau khi Huyền Trang vừa nhập định, nguyên thần liền ly thể. Lúc đó ông phát ra một nguyện: “Hy vọng lần này đệ tử nếu cầu Pháp không thành thì có thể vãng sinh đến Phật quốc, đến Thiên Thượng nghe Pháp, nghe xong Pháp vẫn có thể chuyển sinh trở về nhân gian để độ những tên cướp giết mình”.

Sau khi ông phát ra một nguyện này, từng tầng từng tầng lên đến Thiên Thượng, thấy Bồ Tát thì trong lòng vui thích. Khi nguyên Thần của ông đến thế giới Phật quốc, thì ở nhân gian trên mặt đất liền xuất hiện biến động ghê gớm.

Lúc đó đột nhiên có trận gió đen nổi lên tứ phía khiến các cây đại thụ đều bật gốc, cát bụi mù mịt, sóng to gió lớn khiến hầu hết thuyền bè đều bị lật tung.

Những tên cướp cảm thấy rằng họ đã khiến Trời Đất nổi giận, đều rất kinh hoàng. Có người nói, tăng nhân này không thể giết được, đây chính là hòa thượng từ Đông Thổ Đại Đường đến Thiên Trúc lấy kinh.

Lúc này Huyền Trang xuất định, bọn cướp liền vứt hết đao kiếm sang một bên, tất cả đều quỳ xuống. Huyền Trang nhân cơ hội này giảng pháp cho họ, sau khi nghe xong, những tên cướp này đã đem tất cả hung khí dùng để cướp bóc vứt hết xuống sông Hằng, sau đó thụ ngũ giới, quỳ lạy trước Huyền Trang rồi mới rời đi. Cuối cùng Huyền Trang đã bình an đến được nước Thiên Trúc, Thánh địa của Phật giáo.




Đến chùa Na Lạn Đà
Thời Ấn Độ cổ, Chùa Na Lạn Đà là trung tâm nghiên cứu Phật học. Đây là nơi mà Huyền Trang phải trèo đèo lội suối bôn ba vạn dặm tìm đến. Đại đức trụ trì chùa Na Lạn Đà là đại sư Giới Hiền đã trên 100 tuổi, mọi người gọi ông là “Chính Pháp Tạng”.

Các tăng lữ đi cùng Huyền Trang đến bái kiến Giới Hiền. Huyền Trang cung kính đến trước Giới Hiền hành đại lễ. Sau một hồi hàn huyên, Giới Hiền bảo Huyền Trang và các cao tăng cùng ngồi xuống.

Giới Hiền hỏi: “Ngươi từ đâu đến?”

Huyền Trang đáp: “Học trò từ nước Đại Đường ở Đông Thổ xa xôi đến, mục đích là tới học “Du già sư địa luận” của đại sư để hoằng dương Phật Pháp ở Đông Thổ”.

Giới Hiền nghe những lời của ông thì nước mắt lã chã rơi, lập tức gọi đệ tử cũng là cháu của ông, tên là Giác Hiền đến, muốn Giác Hiền kể lại những trải nghiệm khi mắc bệnh vào ba năm trước cho Huyền Trang nghe trước mặt mọi người.

Giác Hiền khi ấy đã là một lão tăng đã hơn 70 tuổi. Ông kể: “Chính Pháp Tạng mắc bệnh phong thấp, mỗi lần phát tác đều rất đau đớn thống khổ tới mức khó có thể chịu đựng nổi. Ba năm trước bệnh phát tác đặc biệt nghiêm trọng, đau đớn đến mức ông không muốn sống tiếp nữa, thế là ông định tuyệt thực để kết thúc sinh mệnh đời người. Sau khi có ý nghĩ này, bỗng nhiên ông mộng thấy có ba vị Thiên nhân đến tìm, một người màu vàng kim, một người màu xanh ngọc bích, còn một người màu trắng bạc.




Họ nói với Chính Pháp Tạng rằng: ‘Trong kinh điển tuy có thuyết Pháp khổ tu, nhưng tuyệt đối không có chỗ nào bảo người ta tự kết thúc sinh mệnh đời người của mình. Hiện tại nhà ngươi chịu nỗi khổ này là do đời trước đã tạo nghiệp chướng. Vì vậy, hãy cố gắng hết sức nhẫn chịu, dốc sức hoằng dương kinh luận để tiêu trừ tội nghiệp trong quá khứ. Như thế mới có thể tránh được đời sau phải chịu nỗi thống khổ tương tự’. Chính Pháp Tạng vội vàng bái lạy họ. Lúc đó Thiên nhân màu vàng kim chỉ vào vị Thiên nhân màu xanh ngọc rồi nói: ‘Vị này chính là Bồ Tát Quán Âm’. Tiếp theo lại chỉ vào vị Thiên nhân màu trắng bạc nói: ‘Vị này là Bồ Tát Từ Thị’ (tức Bồ Tát Di Lặc).

Chính Pháp Tạng liền nói với Bồ Tát Từ Thị rằng: ‘Đệ tử hy vọng có thể chuyển sinh đến bên Ngài, không biết có thể được hay không?’ Bồ Tát Từ Thị trả lời: ‘Chỉ cần ngươi dốc toàn lực hoằng dương Phật Pháp thì có thể thực hiện được nguyện vọng’.

Thiên nhân màu vàng kim tự giới thiệu là Bồ Tát Văn Thù. Bồ Tát Văn Thù nói với Chính Pháp Tạng rằng: ‘Ta biết ngươi muốn tự tử, cho nên mới đặc biệt đến đây khuyên can. Chỉ cần ngươi đem “Du già sư địa luận” truyền bá đến nơi vẫn chưa từng thấy bộ kinh này thì mọi đau đớn bệnh tật sẽ tự hết’. Bồ Tát Văn Thù còn nói thêm: ‘Ngươi không cần phải chủ động phái người đi hoằng dương, rất nhanh sẽ có một vị cao tăng Đại Đường đến đây thỉnh giáo ngươi. Người này sẽ đem bộ kinh “Du già sư địa luận” trở về hoằng dương. Ngươi nhất định phải đợi và dạy cho người này’. Sau đó ba vị Thiên nhân biến mất. Chính Pháp Tạng tỉnh dậy, việc không thể tưởng tượng nổi đã xảy ra, từ hôm đó trở đi, bệnh phong thấp của ông đã hoàn toàn khỏi hẳn”.




Chúng tăng nghe xong lời của Giác Hiền đều tấm tắc nói rằng kỳ lạ. Huyền Trang thì vừa vui vừa buồn nói: “Nếu đúng là như vậy, đệ tử tất nhiên dốc hết khả năng nỗ lực học tập “Du già sư địa luận”.

Giới Hiền hỏi: “Ngươi đến đây, tính từ lúc xuất phát đến nay, tổng cộng đi mất bao nhiêu thời gian?” Huyền Trang bấm ngón tay tính, xuất phát từ Trường An vào mùa thu năm Trinh Quán thứ nhất, đến nay đã là mùa thu năm Trinh Quán thứ 4, vừa tròn 3 năm. Mà giấc mộng của Giới Hiền cũng xảy ra vừa khớp 3 năm trước. Sự trùng hợp về thời gian này khiến họ càng tin tưởng rằng duyên phận giữa họ đúng là Thiên ý. Họ đã hiểu rõ rằng: “Giờ phút gặp mặt này là đã được an bài từ những niên đại xa xưa, trên thân đều mang theo sứ mệnh Thần thánh”.

Thần tích tái hiện

Ảnh ghép minh hoạ.




Huyền Trang đã ở trên núi Trượng Lâm cùng Luận sư Thắng Quân (Jayasena), người có danh tiếng ngang với Giới Hiền, học tập trong thời gian hai năm. Một đêm Huyền Trang mơ một giấc mộng kỳ lạ. Trong mộng ông thấy chùa Na Lạn Đà là một nơi hoang vu, có mấy con trâu đang buộc ở đó, ông tìm khắp bốn phía không thấy bóng dáng tăng lữ nào. Chỉ thấy Thần nhân màu vàng kim ở trên Tứ Trùng Các bỗng nhiên đứng trước mặt. Ông muốn lên lầu thì bị Thần nhân ngăn lại. Thần nhân màu vàng kim nói: “Ta là Bồ Tát Văn Thù, tội nghiệp đời trước của ngươi chưa trả hết, không thể lên được”. Sau đó Bồ Tát chỉ tay xuống dưới nói: “Ngươi hãy nhìn bên ngoài xem”. Huyền Trang nhìn theo hướng tay chỉ của Bồ Tát, thấy trên bầu trời phía ngoài chùa rực đỏ, toàn bộ thôn làng đều bị chìm trong biển lửa. Huyền Trang đang muốn hỏi thì Bồ Tát lại nói: “Ngươi trở về nước mau lên. Bắt đầu từ bây giờ, 10 năm sau vua Giới Nhật Vương (Harsha) sẽ băng hà, Ấn Độ sẽ đại loạn. Nhớ lấy!”.


Huyền Trang bừng tỉnh, ông đem những lời Bồ Tát Văn Thù nói và tình cảnh trong mộng kể cho Thắng Quân nghe. Thắng Quân nói: “Nhân thế vốn vô thường. Việc Bồ Tát nói trong mộng rất có thể sẽ xảy ra. Bồ Tát đã điểm hóa như thế này rồi thì ngươi hãy tự giải quyết cho tốt”. 10 năm sau, đặc sứ Đại Đường là Vương Huyền Sách đến Ấn Độ, vua Giới Nhật Vương quả thực đã băng hà. Sau này còn xảy ra việc Vương Huyền Sách mượn binh bắt sống bọn loạn thần phản lại Giới Nhật Vương.

Nguồn: DKN – Theo Epoch Times

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *