Sau khi biết hành động của Gia Cát Lượng trước lúc lâm chung, không thể không bái phục trí thông minh của ông. Lúc sinh thời tận tụy hết mình vì đất nước, trước lúc mất vẫn không quên bảo vệ chu toàn cho các tướng sĩ.
Nguồn ảnh: ntdvn.net
Gia Cát Lượng là một con người có tinh thần trách nhiệm cực cao, cho dù tới lúc lâm chung cũng vẫn luôn tận tụy, trung thành với chúa. Sau khi Lưu Bị qua đời, Ông lại tận tụy phò tá cho Hậu Chủ lên ngôi. Nhưng cho dù ông có tài giỏi đến đâu thì ông cũng chỉ là một con người bình thường, cũng phải trải qua sinh lão bệnh tử, sớm muộn gì cũng có ngày nhắm mắt xuôi tay.
Trong lần cuối cùng Bắc chinh, ông không trụ được, tự biết rằng nước Thục có lẽ thực sự đã đến lúc nguy hiểm rồi, cuối cùng ông chỉ có thể thử vận may, định làm phép để kéo dài tuổi thọ.
Nhưng lần này ông Trời đã không cho ông thêm cơ hội. Trước khi ông trút hơi thở cuối cùng, ông cho gọi tướng lĩnh thân cận bên cạnh mình và dặn dò rằng: “Sau khi ta qua đời không được làm lớn chuyện, không được quá đau thương, công việc bình thường hàng ngày cần làm gì thì cứ làm, hãy thắp một ngọn đèn lên, lấy 7 hạt gạo để vào trong miệng cho ta ngậm. Làm như vậy cho dù ta không còn sống cũng có thể bảo vệ bình an cho các tướng sĩ”. Thuộc hạ của ông nghe xong cũng làm theo y như vậy.
Sau này, thuộc hạ của Tư Mã Ý hỏi ông nên làm thế nào, Tư Mã Ý thần sắc hoang mang, kể cả Tư Mã Ý và thuộc hạ đã hỏi ông đều là thuật sĩ, nên biết thiên tượng có nghĩa là gì. Ngôi sao phía bắc kia lúc sáng lúc tối thì chắc chắn không phải là điềm lành, bây giờ xuất binh một cách mù quáng thì chắc chắn là thất sách. Thấy vậy, Tư Mã Ý lập tức cho người tới tìm hiểu tình hình của nước Thục. Chẳng ngờ, nước Thục bây giờ đã chẳng thấy tăm hơi đâu.
Lúc này họ mới hiểu mình đã trúng kế. Hóa ra thiên tượng mà người cổ đại chú trọng lại có liên quan tới con người, một khi người mất thì ngôi sao chiếu mệnh của người đó đương nhiên sẽ tắt, Gia Cát Lượng biết bản thân không còn trụ được nữa, Tư Mã Ý định chờ sau khi ông mất thì sẽ dễ dàng xâm chiếm hơn, chẳng ngờ lại để Gia Cát Lượng nhanh chân đi trước một bước.
Miếu Gia Cát Lượng ở Gò Ngũ Trượng. (Ảnh: soundofhope)
Vì sao Gia Cát tiên sinh lại hạ lệnh ngậm 7 hạt gạo sau khi qua đời?
Gia Cát Lượng sở dĩ bảo Dương Nghi lấy bảy hạt gạo bỏ vào miệng ông, là bởi vì Gia Cát tiên sinh am hiểu pháp thuật Lục Đinh, Lục Giáp. Ông sử dụng pháp thuật này để âm hồn của mình tái hiện, có thể trấn trụ thân thể, khiến thiên tượng cho rằng ông còn chưa chết, như vậy thì Tướng tinh trên trời tạm thời vẫn chưa rơi. Trong sách Khổng Minh đã giải thích: “như thế, ngôi tướng tinh không rơi xuống, âm hồn ta tự khắc cũng nhấc lên được”.
Mặt khác, Gia Cát Lượng biết rõ Tư Mã Ý đa nghi, sẽ không đánh một trận khi còn chưa chắc chắn. Tư Mã Ý tuy biết Gia Cát Lượng không còn sống lâu nữa, nhưng chỉ cần ông vẫn đang còn sống thì sẽ không dám hành động thiếu suy nghĩ, như vậy quân Thục sẽ có đủ thời gian để rút lui.
Sau này vào cuối thời nhà Đường có một văn nhân tên là Trần Cái đã viết lời chú cho bài “Ngũ Trượng Nguyên Thi” của Hồ Tằng, trong đó giải thích rằng: Gia Cát Lượng dặn dò “túc hạ đạp thổ” (dưới chân chạm đất), “kính yên tâm tiền” (gương đặt trước tim), trong miệng ngậm bảy hạt gạo và một lượng nước thích hợp, biểu thị vẫn còn có thể ăn uống như người đang sống, trong tay cầm bút và binh thư, lại có ngọn đèn sáng ở trước đầu, biểu thị vẫn đang hoạch định quân mưu.
Trong thực tế, nghi thức này đã có từ lâu đời. Tập tục để một số đồ vật trong miệng người đã khuất rồi an táng, thời cổ đại gọi là “ngậm”, “ngậm ngọc”, “ngậm cơm”… Những thứ mà người chết thường ngậm là ngọc, gạo, ngũ cốc. Nếu ngậm các loại lương thực nói chung thì đều được gọi là “ngậm gạo”, nếu ngậm châu báu ngọc ngà thì đều gọi là “ngậm ngọc”.
Trong “Công Dương Truyện” ghi chép: Hiếu tử không nỡ để cha mẹ trong miệng vẫn trống rỗng khi qua đời, cho nên mới đặt một số thứ như gạo, cơm, ngọc, châu báu… vào miệng của họ.
Đối với tập tục này, trong “Bạch Hổ Thông – Băng Hoàng” cũng nói thêm: Vì sao phải ngậm gạo? Đó là vì khi sống phải ăn uống, cho nên khi chết đi trong miệng không thể trống không, vì vậy cần ngậm đồ. Vậy tập tục này được thực hiện như thế nào? Thiên Tử ngậm ngọc, chư hầu ngậm châu, đại phu ngậm gạo, văn sĩ ngậm bối.
Gia Cát Lượng không phải là chư hầu, chức vị Thừa Tướng của ông được xem như một cấp của đại phu, cho nên ngậm gạo là phù hợp với thân phận ấy. Ngậm gạo ở đây không liên quan gì đến hiếu tử, mà có lẽ giống như Trần Cái nói, điều này biểu thị ông dù đã chết nhưng vẫn có đầy đủ quyền năng giống như khi còn sống.
Nhưng tại sao nhất định phải là bảy hạt gạo? Bởi vì trong tập tục mai táng của người phương Đông, số “bảy” là con số thần bí, hàm chứa một ý nghĩa văn hóa sâu xa. Ví dụ Rằm tháng Bảy Âm lịch là Tết Trung Nguyên, cũng gọi là “tiết quỷ”, là ngày mà bách quỷ dạo đêm. Vào ngày này, người xưa có tập tục đốt nến cúng nhan ở hai bên đường.
Ngoài ra, những người đã khuất sau bảy ngày qua đời cần phải làm “Thất Đầu”, bởi vì tương truyền sau khi chết bảy ngày thì linh hồn sẽ trở về nhà, do đó người nhà cần phải chuẩn bị cơm canh nghênh đón. Sau đó cách 7 ngày lại làm pháp sự, qua bảy bảy bốn mươi chín ngày mới có thể siêu độ vong linh cho người đã khuất. Vì vậy “ngậm bảy hạt gạo” cũng chính là mượn dùng thâm ý của con số “bảy” thần bí trong văn hóa Đông phương, cũng là một ngụ ý cao thâm khôn lường của Gia Cát Lượng.
Gia Cát Lượng cả đời vì nước, “cúc cung tận tụy đến chết mới thôi”. Đến lúc cận kề cái chết, ông vẫn canh cánh nỗi lo nghĩ làm thế nào để trợ giúp đất nước của mình. Tấm lòng cao thượng này đáng để hậu nhân kính nể từ đáy lòng, cũng lưu lại bao nỗi niềm thương tiếc!
Nguồn: VDH
- Chùa cổ nghìn năm – chim không vào, mối không đục, nhện không giăng, bụi trần không bám
- NASA tuyên bố: Cánh cửa bí ẩn trên Sao Hỏa là “lối vào quá khứ cổ đại”
- Hài cốt 3.000 tuổi hé lộ hình phạt kinh hoàng thời Trung Quốc cổ đại