Bí mật vũ trụ: Sở hữu siêu năng lực như Tesla có thể giao tiếp với linh giới để phát minh

Nikola Tesla là một trong những khoa học gia thiên tài hàng đầu vĩ đại trong lịch sử, được mệnh danh là ‘người phát minh ra thế kỷ 20’.

Người đàn ông sinh năm 1856 này đã từng đề xuất ý tưởng về những tên lửa, ngư lôi, thiết bị bay điều khiển bằng vô tuyến, máy bay phản lực, tàu có đệm không khí từ những năm cuối thế kỷ XIX. (Ảnh: tổng hợp)

Cả cuộc đời ông đã có khoảng 700 các phát minh độc lập có bằng sáng chế riêng, và hơn 1000 phát minh hợp tác. Nhưng linh cảm sáng tạo và phát minh trong cuộc đời của ông đều không phải đến từ bản thân ông, mà có được từ một trường thông tin của vũ trụ.

Vài nét về nhà phát minh thiên tài Tesla
Tesla đã từng nói: “Đại não của tôi chỉ là một chiếc máy tiếp nhận. Trong vũ trụ có một kho dữ liệu lưu giữ tất cả các thông tin mà từ đó chúng ta có thể có được tri thức, sức mạnh và linh cảm. Tôi vẫn chưa lý giải sâ u được bí mật cốt lõi này, nhưng tôi biết nó tồn tại”.

Tesla có nhiều công năng đặc dị, ông có thể nghe được âm thanh rất nhỏ, từ rất xa, có khả năng ghi nhớ rất tốt đối với chữ viết, hình ảnh. Ông còn có thể dùng ý niệm đi ngao du trong các thời không khác… 

Khả năng giúp ích nhất cho phát minh của ông, đó là ông có thể tạo ra hình ảnh thị giác ở trong đại não mình, ngày nay được gọi là ‘khai thiên nhãn’. Cũng chính nhờ vậy, Tesla có thể phác thảo thiết kế chi tiết trong đầu mà không cần bất kỳ mô hình, bản vẽ hay thí nghiệm, ông còn có thể liên tục cải tiến cho tới khi nó hoàn hảo mới đưa thành phẩm ở trong đại não tiến hành làm ra thực tế, vì vậy các phát minh của ông hầu như 100% thành công. Trên thực tế, đó lại là quá trình giao tiếp của ông với các hạt điện từ. Thông qua thiên nhãn, Tesla còn có thể nhìn thấy mỗi hạt điện từ đều là sinh mệnh thông minh, nên ông coi điện cũng như một sinh mệnh, và có thể trò chuyện với chúng, còn phát ra mệnh lệnh với chúng.

Nhà khoa học nghiên cứu về khả năng đặc biệt
Giáo sư Lý Tự Sầm (Lee Si-chen) là nhà khoa học xuất sắc người Đài Loan đã có hơn 25 năm nghiên cứu về công năng đặc dị. Ông đã tiếp xúc với rất nhiều người có công năng đặc biệt, nên ông có sự hiểu biết sâu sắc đối với các khả năng đặc biệt như của Tesla. Từ năm 1996, giáo sư Lý bắt đầu huấn luyện các em nhỏ dùng ngón tay đọc chữ, và nghiên cứu sức mạnh của ý niệm, thiên nhãn, thiên mục hay con mắt thứ ba.

Giáo sư Lý Tự Sầm. (Ảnh: DevilMirror/CC BY-SA 3.0)




Năm 1999, giáo sư Lý Tự Sầm đã có một phát hiện quan trọng: nhóm của ông đã phát hiện ra rằng, khi dùng các chữ đặc biệt, có liên quan tới một số các nhân vật Thần Thánh trong lịch sử hoặc tôn giáo, ví như với các chữ ‘Phật’, ‘Bồ tát’, ‘Giê-su’, ‘Khổng tử’, ‘Lão tử’ hoặc phù hiệu ‘chữ Vạn’ (卍), thái cực đồ… khi nhìn những chữ này qua thiên mục của những trẻ nhỏ, chúng sẽ thấy ánh sáng hoặc hình người, đền miếu, thập tự giá phát sáng; có khi lại thấy bóng người tối, hoặc nghe thấy âm thanh. 

Phát hiện này hoàn toàn khác với kết quả của hơn 800 lần đọc bằng ngón tay. Từ đó giáo sư Lý đã tìm ra chìa khoá của đối thoại với Thần linh trong trường thông tin vũ trụ. Ông nhận định rằng: Thế giới vật chất chúng ta đang sống là thời không số thực bốn chiều, còn thời không số ảo của bốn chiều là trường thông tin hay còn thường được gọi là ‘linh giới’. Vậy thì, bất kỳ vật thể nào của thời không số thực, thì trong không gian số ảo đều có một kết cấu hình dạng giống như thế. Điều này được gọi là ‘nhất vật lưỡng tượng’ (một vật hai hình tượng), chỉ cần vật thể tiến nhập vào trạng thái lượng tử vĩ mô, bộ phận số ảo sẽ xuất hiện, ý thức cũng xuất hiện, vì thế vạn vật đều có linh.

Về thí nghiệm giao tiếp với linh giới của giáo sư Lý Tự Sầm, cơ bản là sử dụng cô gái tên T sở hữu công năng đặc dị để hoàn thành trắc nghiệm.

Ngao du vũ trụ tìm kiếm Thần Phật
Năm 2002, giáo sư Lý mời cô T dùng tay đọc chữ, nhận dạng chữ ‘Sam’. Sam là chữ viết tắt của Samuel. Theo từ điển lớn Webster, sử dụng tiếng Do Thái để giải thích ý nghĩa của Samuel là ‘tên của Thượng Đế’. Họ hy vọng có thể nhìn thấy Thượng Đế. Kết quả, đầu tiên cô T nhìn thấy một cây thập tự giá trống rỗng, phía sau nó rất sáng, trông giống như cánh cửa lớn. Cô đã thử vài lần bước vào cánh cửa lớn thập tự giá đó nhưng đều không thể tiến vào được. Thậm chí cô đã nhiều lần sử dụng các ngôn ngữ bí mật khác nhau như ‘Amen’, ‘Hallelujah’ nhưng đều không cách nào vào được cửa. 

Mãi hai năm sau, nhóm nghiên cứu lại một lần nữa để cô T thử nghiệm. Lần này, trên giấy họ viết chữ ‘Giê-su’ và thêm một câu hỏi ‘Có thể tiến vào Thiên đường không?’ Kết quả là, có một người canh gác cửa phát ra ánh sáng đã cho cô T dùng thiên nhãn tiến vào Thiên đường. Cô nhìn thấy con đường tràn ngập ánh sáng, phía sau là một nhóm người phát ra ánh sáng, có thể họ là những Thiên sứ, trông họ vô cùng an tĩnh và bình yên.

Vài tháng sau, giáo sư Lý cố gắng để cô T đi thăm quan vườn Dược Sư của Dược Sư Phật. Qua thiên nhãn cô liền nhìn thấy 5 vòng tròn sáng liên tiếp nối thành hàng, từng hàng kéo dài xuống dưới, ở giữa ánh sáng khá mờ nên trong lòng cô nghĩ ‘mình có thể tiến vào xem một chút không?’ Lúc đó, một người vô cùng cao lớn và sáng rực rỡ xuất hiện và hỏi cô muốn xem chỗ nào. Giáo sư Lý cảm giác rằng người đó là Phật Dược Sư. Cô T trả lời chỗ mình muốn xem, Phật Dược Sư chỉ tay một cái, cô liền thấy một vườn thực vật, ánh sáng lấp lánh. Sau khi xem thành phần của một loại cây nào đó, màn hình thiên nhãn của cô đóng lại. 




Sau đó, cô T lại hỏi có thể xem tiếp một chỗ nữa không. Phật Dược Sư nói: “Một nơi cuối cùng nữa, sau đó sẽ không được xem”. Phật lại chỉ tay một cái, cô liền thấy một vườn cây với dây leo mềm rủ từ trên xuống, nửa trong suốt, chúng đung đưa và ở phần nhọn phía dưới phát ra ánh sáng, nhìn chúng khiến cô cảm thấy một sự tường hoà. 

Nhóm nghiên cứu và cô T đã vài lần tham quan vườn Dược Sư. Một lần họ tới hiệu thuốc của vườn Dược Sư, bên trong các bình thuốc và tủ thuốc phát sáng, và có đầy đủ thông tin thuốc. Cô T nói rằng, giáo sư Trần bị bệnh cần thuốc, có thể lấy thuốc được không. Phật Dược Sư cho cô lấy một loại nhưng cô không thể cầm nó lên được. Kết quả, đột nhiên giáo sư Lý và các nhân viên nghiên cứu có mặt đều ngửi thấy mùi thuốc bắc trong phòng thí nghiệm. Mọi người đều cho rằng nó đến từ hiệu thuốc của vườn Dược Sư.

Tiếp xúc với người ngoài hành tinh
Tháng 6 năm 2002, khi giáo sư Lý làm thí nghiệm đọc chữ bằng tay, ông đã đặt vấn đề với thầy của cô T rằng, nhờ giới thiệu một người ngoài hành tinh để làm quen. Nửa năm nguyện vọng này đã được đáp ứng. Cô T dùng thiên nhãn quan sát một nền văn minh tiên tiến trong chòm sao Thiên Nga (Cygnus) của Dải Ngân hà, cô thấy sinh vật trí huệ cao cấp của chòm sao này có ngoại hình khá giống nhân loại: có hai mắt, hai lỗ mũi, một cái miệng, hai tay, hai chân nhưng mỗi bàn tay chỉ có ba ngón tay, trong đó có một ngón đặc biệt to, trên trán có một phần nhô ra giống như ăng-ten, nhưng không thấy chân. Hơn nữa hành động của họ rất nhanh, nói cũng vô cùng nhanh, trông như đang liên tục nói với chính họ, lại như liên lạc với người khác. 




Cô T dùng thiên nhãn quan sát một nền văn minh tiên tiến trong chòm sao Thiên Nga (Cygnus) của Dải Ngân hà, cô thấy sinh vật trí huệ cao cấp của chòm sao này có ngoại hình khá giống nhân loại. (Ảnh minh họa: Pixabay)

Công nghệ của những người ngoài hành tinh này vượt xa con người trái đất. Họ cũng đã từng tới trái đất. Thầy của cô T chỉ vị trí của hành tinh nơi có nền văn minh tiên tiến này là một hành tinh của một ngôi sao ở xích vĩ 32 độ, xích kinh 20 độ 19 phút thuộc chòm sao Thiên Nga. Nhưng một mình cô T dùng thiên nhãn xem thế giới ngoài hành tinh sẽ không thể thuyết phục được người khác, vì vậy cần có sự kiểm chứng độc lập khác. Thế là giáo sư Lý tới Bắc Kinh, đến Viện nghiên cứu khoa học nhân thể, Đại học Địa chất Trung Quốc, tìm gặp giáo sư Thẩm Kim Xuyên và cô Tôn Trữ Lâm – người sở hữu công năng đặc dị, và thực hiện lại thí nghiệm của cô T. 




Giáo sư Lý đưa ra biểu đồ chòm sao để cô Tôn Trữ Lâm dùng thiên nhãn quan sát để xác minh văn minh ngoài hành tinh của chòm sao Thiên Nga. Kết quả chưa đầy hai giây, cô Tôn cho biết: người ngoài hành tinh này trên đầu phải có hai ăng-ten. Cô lại lần nữa dùng thiên nhãn kiểm chứng thêm, không ngờ trong nháy mắt, người ngoài hành tinh liền thu vào trong đầu một chiếc ăng-ten. Sau này, giáo sư Lý để cô T làm lại thí nghiệm và kết quả cô nhìn thấy thầy của mình đối thoại với một người ngoài hành tinh, và quả thực trên đầu người này có hai chiếc ăng-ten, có điều một trong hai chiếc ăng-ten đó có cái lúc dài lúc ngắn, lúc có lúc không. Sau đó thầy cô T nói với cô rằng, chiếc có thể thu phóng tuỳ ý kia là để dùng thu nhận thông tin, khi không dùng sẽ được thu lại. 

Nghiên cứu của giáo sư Lý dựa vào công năng, thiên nhãn của con người, thiếu bằng chứng trực tiếp, nhưng bản thân ông rất tin việc dùng trường thông tin làm loại tiếp xúc thứ ba, là biện pháp khả thi duy nhất hiện tại.

Trong thí nghiệm tiếp xúc với người ngoài hành tinh lần này, có thể thấy cô T cần phải có sự giúp đỡ của thầy, sau đó cho phép cô nhìn thấy qua thiên nhãn. Nhưng đối với cô Tôn Trữ Lâm thì khác, cô không cần thầy mà có thể tự mình ngao du vũ trụ, và trực tiếp tiếp xúc với người ngoài hành tinh, không cần sự giúp đỡ của thầy, có thể thấy công năng đặc dị của cô rất mạnh. Thực tế, cô Tôn  thuộc số rất ít người sở hữu công năng đặc dị mạnh ở Trung Quốc hiện nay.

Kỳ nhân Tôn Trữ Lâm
Giáo sư Lý Tự Sầm cùng nhà khoa học Trung Quốc – giáo sư Thẩm Kim Xuyên, và cô Tôn Trữ Lâm hợp tác nghiên cứu trong vài năm, và xuất bản cuốn sách mang tựa đề ‘Là công năng đặc dị hay là tiềm năng?’ Họ đã làm rất nhiều thí nghiệm nghiêm ngặt về nghiên cứu khoa học nhân thể với cô Tôn. Tại hiện trường không chỉ có nhiều máy quan trắc, mà toàn bộ quá trình nghiên cứu đều có ghi âm, ghi hình giám sát. 

Ban đầu cô Tôn chỉ có khả năng thấu thị và dùng tai đọc chữ, nhưng sau này vì hoàn thành hàng loạt các thí nghiệm kỳ lạ của giáo sư Thẩm, cô không ngừng rèn luyện và nâng cao khả năng bản thân, và đã khai phát hơn 60 loại công năng đặc dị, trong đó có dùng ý niệm khiến rôto máy đo bức xạ trong phòng kín đảo chiều nhanh, dùng ý niệm khiến kim đồng hồ thạch anh dừng lại, đột phá chướng ngại của không gian, cho giắc-co vào lọ, dùng ý niệm di chuyển khuy áo, khiến những viên thuốc trong chai kín xuyên ra ngoài. 




Cô Tôn còn có công năng thần kỳ nữa là khiến nụ hoa nở nhanh, khiến nhiều loại hạt giống lập tức nảy mầm, ra lá; thậm chí có thể khiến quả táo xanh chỉ trong vài phút biến thành táo đỏ, rồi từ táo đỏ biến trở lại thành táo xanh. Cô còn có thể khiến các loại rau đã trần hoặc nấu chín đã chết hồi sinh trở lại. Trong quá trình thí nghiệm, cô không chỉ phát công, mà quan trọng hơn là cô đã dùng ý niệm để giao tiếp với thực vật, cũng chính là cô có thể giao tiếp với sinh mệnh của linh giới. Thực vật tâm sự với cô về cảm tình và nguyện vọng của chúng. Nếu không có sự giao tiếp tốt, thí nghiệm sẽ không đạt được hiệu quả kỳ vọng.

Khiến hạt giống nảy mầm lập tức
Một lần, giáo sư Thẩm đưa cho cô Tôn ba hạt đậu đỏ để cô làm cho chúng nảy mầm ngay. Và cô Tôn giao tiếp với hạt đậu đỏ, cô nói thầm ‘đậu xanh, đậu xanh, hãy mau nảy mầm’. Kết quả hạt đậu chuyển thông tin tới cô ‘Sai rồi, sai rồi’. Lúc đó cô chưa hiểu, nên đã phát ra ý niệm hỏi hạt đậu đỏ ‘Cái gì sai rồi?’, và hạt đậu đỏ vẫn tiếp tục nói cô sai rồi. Cô Tôn tập trung lực chú ý vào trước trán và dùng thiên mục để nhìn, lúc này cô mới hiểu ra, vốn đối tượng cần nảy mầm là đậu đỏ, không phải là đậu xanh, cô đã gọi nhầm tên. Cô liền đổi lại, nói: ‘Đậu đỏ hãy nảy mầm’. Kết quả hạt đậu đỏ thực sự đã nảy mầm.

Cô Tôn giao tiếp với hạt đậu đỏ, cô nói thầm ‘đậu xanh, đậu xanh, hãy mau nảy mầm’. (Ảnh: Pixabay)




Còn có một lần, sau khi cô Tôn giao tiếp với cái cây, màn hình trước trán của cô xuất hiện hình ảnh hạt giống, thời gian trôi qua rất lâu mà nó không có động tĩnh gì. Cô thấy kỳ lạ và hỏi nó vì sao không nảy mầm. Không ngờ, nó truyền lại tín tức, nói rằng hiện giờ nó không muốn, nó đang muốn nghỉ ngơi. Cô Tôn không có cách nào khác, và đã nói với mọi người có mặt tại nơi đang diễn ra thí nghiệm rằng hiện tại không phải là lúc, buổi sáng không làm được, hạt giống không nảy mầm. 

Trong quá trình làm thí nghiệm, có lần cô Tôn cảm thấy bản thân và thực vật như là một. Ví như khi cô làm cho hoa nở nhanh, cô cảm thấy mình như đi vào trong tâm bông hoa, cùng hoa dần dần giao tiếp, dung hoà, rồi cô dần trở thành một phần của nụ hoa, cùng hoa nở. Khi cô Tôn làm các thí nghiệm khác, như di chuyển cúc áo, đồng xu, cô đều có trải nghiệm giống như thế.

Khi tiến hành thí nghiệm làm cho hạt giống lớn nhanh, sống trở lại và nảy mầm, cô đã phát hiện ra hiện tượng quan trọng, đó là lúc cô dùng ý niệm thúc giục hạt giống, có loài thực vật, có thể là một loại thông điệp hay năng lượng ở bộ phận trung tâm hướng ra ngoài theo hình xoắn ốc, lúc nhanh lúc chậm, lúc thưa lúc dày, lúc lỏng lúc chặt, chỗ đó sẽ có thay đổi rất rõ, từ trong ra ngoài, cứ xoay xoay và cuối cùng chín. Quá trình tăng tốc sinh trưởng và chín này được gọi là ‘biến đổi xoay thuận’.

Khiến hạt nấu chín hồi sinh
Khi cô làm thí nghiệm về tái sinh, ví dụ như biến táo chín đỏ thành táo xanh, hay khiến lạc hoặc hạt đậu đã trần, nấu chín hồi sinh trở lại, quá trình này là do biến đổi xoay dạng xoắn ốc từ ngoài hướng vào trong. Quá trình này gọi là ‘biến đổi xoay nghịch’, trong quá trình này có các điểm phát sáng với nhiều màu sắc lấp lánh, lúc nhanh lúc chậm, liên tục thay đổi màu sắc và hình dạng, thông thường sau khi liên tục xoay hơn 10 vòng, thì quả chín hoặc, hạt đậu, hạt lạc đã nấu chín dần hồi sinh. Biến đổi xoay thuận và nghịch này rất phù hợp với đặc tính lan truyền của trường xoáy, không bị giới hạn hình nón, tốc độ vượt qua tốc độ ánh sáng, không chỉ có thể truyền hướng tới tương lai mà còn cả quá khứ. 

Cô Tôn đã từng sử dụng nguyên lý biến đổi xoay nghịch để đảo ngược thời gian và trị bệnh. Trong một lần phỏng vấn truyền hình, có vị giáo sư người Nhật từ Đại học Điện cơ Tokyo giới thiệu với cô Tôn một bé trai người Nhật tới khám. Cậu bé 5 tuổi và có khối u trên đầu. Cô Tôn đưa bộ phận bị bệnh của cậu bé chuyển ngược về thời gian lúc 3 tuổi, khối u trên đầu cậu bé đã không còn nữa. Nhiều người có thể tự hỏi, vậy khi cậu bé lại về lúc 5 tuổi liệu lại sẽ xuất hiện khối u không? Cô Tôn giải thích cần xem chế độ ăn uống và lối sống của cậu bé ra sao. Nếu chế độ ăn của cậu vẫn lộn xộn thì tới 5 tuổi bị u là có khả năng. Nói cách khác, tới lúc đó, thân thể vật lý của cậu bé thay đổi thì sẽ chứng minh được cuộc điều trị đã thành công.

Dùng ý nghĩ đục lỗ đồng xu
Từ ví dụ trên chúng ta thấy cô Tôn đã tiến nhập vào thời không số ảo và giao tiếp với linh thể, hoặc mượn dùng công cụ hay năng lượng của linh giới để thực hiện các việc. Giáo sư Lý Tự Sầm từng làm một thí nghiệm để cô đục một lỗ trên đồng xu. 




Cô Tôn mô tả quá trình cụ thể thực hiện thí nghiệm của cô. Đầu tiên, cô khiến tâm trí trống không và nhập tĩnh, cảm giác như mình đang ở một thời không khác, khi đó trước mặt cô xuất hiện một màn hình, trên đó xuất hiện một nắm tay đang cầm đồng xu, tiếp đó nắm tay biến mất, xuất hiện đồng xu, lúc đầu hình ảnh không ổn định, đợi tới khi nó rõ hơn, tập trung ý niệm khoan một lỗ qua nó.

Khi ý niệm tập trung tới mức độ nhất định, trên màn hình xuất hiện một thanh lục giác trong suốt như pha lê, cảm giác nó rất cứng. Cô duy trì tăng cường ý niệm khoan đồng xu, đột nhiên một điểm của thanh lục giác đột nhiên nhô ra ở một đầu tròn nhọn dùng lực đẩy và xuyên qua, tạo ra một lỗ trên đồng xu. Khi xuyên qua, trong não cảm thấy một trận xung kích, giống như màn hình sắp vỡ nát, lúc đó xoè bàn tay ra thì đồng xu đã được đục một lỗ. Điều này quả thực thần kỳ.

(Ảnh: Pixabay)

Khả năng giao tiếp với linh giới
Tổng giám đốc Lâm là ông chủ một công ty điện nhỏ ở Đài Loan. Trước kia ông bị bệnh nên đã luyện tập ngồi thiền, và một thời gian sau khỏi bệnh, ông vẫn duy trì tiếp tục thiền định. Một lần, ông có cơ hội ở linh giới được nhìn thấy những thiết kế rất đặc biệt, nó phát sáng, sau đó ông chế tạo ra máy phát điện bát quái. Máy phát điện thông thường có 4 điện cực, nhưng roto của máy phát điện bát quái có 8 điện cực, nó chiểu theo thiết kế Lạc Thư Trung quốc cổ đại. Máy phát điện bát quái do động cơ dẫn động sinh ra điện và truyền đến phụ tải. 

Ông phát hiện ra rằng máy phát điện bát quái này trong phạm vi tần suất vận chuyển nhất định, công suất tải đầu ra cao hơn công suất đầu vào một cách bất ngờ. Ông Lâm không thể giải thích được việc này, ông đã tới Bộ Khoa học Công nghệ Đài Loan báo cáo thành quả và xin hỗ trợ kinh phí. Kết quả, các chuyên gia nói một câu rằng ‘Vi phạm định luật bảo toàn năng lượng’ và từ chối. 

Sau này ông Lâm hỏi giáo sư Lý Tự Sầm, giáo sư nhận định nó có liên quan đến hiệu ứng chồng chất của trường xoắn tương tự như hiệu ứng sinh ra khi trường xoắn phá vỡ thời không. Vì vào năm 1890, Tesla đã từng thiết kế một loại động cơ có thể không cần xăng, nhiên liệu, mà dùng điện do xe trực tiếp sinh ra để thao tác và khởi động xe. Điều này rõ ràng cũng vi phạm ‘định luật bảo toàn năng lượng’. Sau này nhiều người đã thử mô phỏng và đăng ký Bằng sáng chế ở Hoa Kỳ nhưng do không nói rõ được nguồn năng lượng nên đã bị Cục sáng chế từ chối.

Giáo sư Lý Tự Sầm cho rằng thiết kế này thực ra là một loại kết cấu thiết bị do trường xoắn sinh ra. Bởi trường xoắn có thể đi vào không gian số ảo, đem năng lượng được lưu giữ trong đó đưa sang không gian số thật. Đây chính là điều có thể khiến máy phát tạo ra nhiều năng lượng hơn đầu vào, vì máy phát này có thể lấy năng lượng từ hư không. 

Giáo sư Lý đề xuất ông Lâm tiến hành thử nghiệm chạy trên đường thực tế để kiểm chứng máy phát điện bát quái có thực sự tồn tại ‘năng lượng chân không’ không. Đầu tiên ông thử nghiệm xe điện với pin tiêu chuẩn, kết quả sau khi chạy 40 km, điện áp giảm xuống dưới 49 vôn, cần phải sạc điện. Sau đó ông sử dụng máy phát điện bát quái kết hợp với pin tiêu chuẩn, rồi lại chạy thử nghiệm. Kết quả xe chạy tới 80 km pin vẫn có điện áp 55 vôn, nghĩa là vẫn có thể chạy xe tiếp, không cần sạc. Đây đã là gấp 2 lần quãng đường tối đa mà pin thông thường có thể chạy.

Năm 2019, ông Lâm mắc bệnh qua đời. Trước đó, ông đem các bằng sáng chế máy phát điện trong và ngoài nước của mình, cùng các nghiên cứu phát triển dở dang, giao lại cho người nhà cùng 3-4 giáo sư đại học để tiếp tục nghiên cứu. Nhưng tới nay vẫn chưa chính thức xuất hiện.

Nhìn lại nhà khoa học Tesla, cả đời có hơn 1000 phát minh, nhưng cuộc sống của ông rất khốn khó. Ông vốn có thể trở thành người giàu nhất thế giới, nhưng ông tuyên bố từ chối quyền sáng chế đối với dòng điện xoay chiều, cung cấp miễn phí cho mọi người sử dụng. Ông đã tạo ra của cải cho mọi người, còn bản thân thì cơ cực, trước khi qua đời ông còn nợ rất nhiều. Ông từ chối giải Nobel, coi nhẹ danh lợi.


Nếu nói Tesla là người gần Thần nhất, có lẽ không chỉ để nói tới trí tuệ và tài năng của ông, mà cả phẩm hạnh, tâm hồn và cảnh giới, đều đạt tới tiêu chuẩn của linh giới tầng thứ cao, ông mới có thể giao tiếp được với các sinh mệnh của linh giới vi quan hơn như hạt điện từ, mới được sở hữu trí tuệ và năng lượng của tầng thứ linh giới.
Nguồn: NTDVN – Theo Diqiukezhan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *