Thuận theo sự biến hóa của thiên tượng, mỗi một triều đại đều phát sinh rất nhiều biến cố lịch sử. Thời cổ đại, việc quan sát thiên tượng mà biết được biến hóa tương lai, gọi là Tinh tượng học hay Chiêm tinh học.
Các nền văn minh sớm nhất được ghi chép lại trong lịch sử nhân loại như văn minh Babylon, Hy Lạp, Ấn Độ, Ai Cập, Nubi, Iran, Trung Hoa và Maya đều có nhắc tới các phương pháp quan sát bầu trời đêm. Việc quan sát này gọi là Thiên văn học, và bao hàm nhiều phương pháp phong phú như thuật đo sao, thiên văn hàng hải, thiên văn quan sát, làm lịch…
Cũng theo sử sách ghi chép lại, việc suy đoán số mệnh dựa trên độ sáng, vị trí của sao chiếu mệnh, cùng các hiện tượng xảy ra trên bầu trời (trong vũ trụ) đã ra đời và có lịch sử hàng nghìn năm. Chiêm tinh học phương Tây hay Tinh tượng học phương Đông đều có sự tương đồng, và xuất hiện cùng thời điểm với các khoa học tiền sử như Thái Cực, Hà Đồ, Lạc Thư, Chu Dịch, Bát Quái.
Dụng cụ xem thiên văn của Đông phương thời xưa.
Trong lý niệm của cổ nhân, Trời và người là có thể cảm ứng, tác động qua lại lẫn nhau, gọi là “Thiên nhân cảm ứng”, “Thiên nhân hợp nhất”. Từ đó, con người có thể dựa vào sự biến hóa của thiên tượng mà đoán biết trước được những sự việc xảy ra trong nhân thế.
Con người hành xử thuận Đạo Trời thì Trời liền hiện ra những điều may mắn, cát tường. Khi ấy, mưa thuận gió hòa, mùa màng sẽ bội thu và đất nước thái bình, người dân sống an định. Trái lại, con người làm ra những việc nghịch Đạo Trời, phạm phải việc xấu, thì Trời sẽ giáng xuống những điềm xấu, những hiện tượng kỳ dị. Khi ấy, thời tiết sẽ khô cằn, hạn hán hoặc lũ lụt, thiên tai, đất nước xảy ra binh biến, người dân sống trong loạn lạc. Vậy nên các triều đại xưa kia đều rất coi trọng việc quan sát Thiên tượng.
Thời cổ đại, triều đình thiết lập Ti thiên giám, Thái sử lệnh, Khâm thiên giám để chuyên môn làm nhiệm vụ quan sát Thiên tượng, đoán trước điều cát hung sắp xảy ra. Không những thế, mỗi lần Trời giáng dị tượng xuống nhân gian, Hoàng đế sẽ tự xem xét lại bản thân mình. Khi tìm ra những lỗi lầm của bản thân, Hoàng đế lập tức phải quy chính lại hành vi của mình để mong tai họa không giáng xuống nhân gian.
Những người có học vấn thời cổ đại đều nghiên cứu về Chu dịch, Tinh tượng học… nên rất hiểu biết về đoán mệnh. Có nhiều học giả rất tinh thông về việc quan sát Thiên tượng như Trương Hành, Thẩm Quát, Quách Thủ Kính. Cũng có không ít học giả viết sách trình bày và phân tích về quan sát Thiên tượng, nổi tiếng là nhà sử học thời Tây Hán, Tư Mã Thiên với cuốn “Thiên quan thư”.
Ngoài ra còn có hình thức quan sát bầu trời để lấy thông tin, làm chuyện đại sự, thực ra chính là vận dụng một loại khoa học kỹ thuật vô cùng cao siêu, so với vệ tinh và tình báo hiện đại không biết là thâm sâu và tiên tiến gấp bao nhiêu lần.
Từ trong những ghi chép chúng ta biết được Quỷ Cốc Tử, Khương Thượng, Trương Lương cho đến Gia Cát Lượng, Thiệu Ung, Lưu Bá Ôn v.v., đều là những cao thủ tài giỏi.
Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, có một chương tiết miêu tả về khả năng quan sát các vì sao của Gia Cát Lượng.
Đêm tối, Khổng Minh thân mang bệnh, vén lều ra ngoài, ngước nhìn lên trời quan sát thiên văn, xem xong ông vô cùng kinh hoàng; ông vào trong lều nói với Khương Duy: “Ta nguy đến nơi mất rồi!”
Khương Duy hỏi: “Thừa tướng cớ sao lại nói lời như vậy?”
Người xưa nhìn thiên tượng biết biến hóa nhân gian
Khổng Minh đáp: “Ta thấy trong ba ngôi sao, sao Khách Tinh sáng lên gấp bội, sao Chủ Tinh lại u ám, sao Tướng Phụ bóng tối lờ mờ; thiên tượng như vậy, đủ biết mệnh ta!”
Khương Duy nói: “Cho dù thiên tượng như vậy, thừa tướng sao không dùng phép cầu an dâng sao giải hạn để vãn hồi?”.
Khổng Minh nói: “Ta am hiểu phép ấy, nhưng chưa biết Thiên ý ra sao”.
Mặt khác, Tư Mã Ý trong Ngụy Cung cũng bằng cách quan sát như thế mà phát hiện và đoán về Gia Cát Lượng. Tư Mã Ý mừng lắm, và nói với Hạ Hầu Bá rằng: “Ta thấy tướng tinh đổi ngôi, Khổng Minh chắc chắn có bệnh, không lâu tất sẽ chết”.
Kết quả, bệnh của Khổng Minh bị Tư Mã Ý đoán còn chính xác hơn cả đại phu, không lâu sau quả thật Khổng Minh qua đời.
Trong Phi Long Truyện cũng có một đoạn tự thuật “Cao Hành Châu ban đêm quan sát tinh tượng” như sau:
Cao Hành Châu rời chỗ ngồi, đi ra ngoài lều quân, chỉ thấy ngũ cung bốn phía, nghiêm cẩn cung kính. Lại cảm thấy gió lạnh tạt vào mặt, toàn thân lạnh như băng. Ngẩng đầu lên nhìn một cái, thì thấy bầu trời đầy sao sáng chói không trung.
Lại hướng về sông Ngân quan sát thì thấy miệng sao Tử Vi sinh ra khí đen, lúc thì sáng lúc thì u ám, sao Khách Tinh ở vị trí đế vị, sao Minh Tinh vượng khí chiếu thẳng xuống Thần Châu. Biết được thiên hạ Đại Hán không lâu nữa, tất sẽ thuộc về Quách Uy, vì đó mà lo âu.
Lại qua mấy ngày, bệnh tình càng nặng. Đêm hôm đó, lúc canh ba, trong tâm Cao Hành Châu vì hoài nghi lo lắng nên đã gọi con trai: “Con trai ta, con đỡ ta ra ngoài để quan sát lại tinh tượng xem thế nào”.
Hoài Đức nói: “Cha thân thể bất an, cần phải tĩnh dưỡng, đợi khi bệnh khỏi rồi hãy lại đi xem”. Hành Châu nói: “Con cứ đỡ ta đi, đừng có ngăn cản ta”.
Hoài Đức không dám làm trái, đành đỡ phụ thân đi ra ngoài lều ngóng xem thiên tượng. Nhìn thấy ngôi sao chiếu mệnh của mình ảm đạm u ám, Hành Châu đứng không vững, thở dài một tiếng, rồi im lặng không nói lời nào.
Hoài Đức đỡ cha vào hậu đường, ngồi trên chõng, ông buồn bã than vãn. Hoài Đức hỏi: “Cha quan sát sao xong, sao không nói gì mà lại thở dài?”
Hành Châu trả lời: “Con trai, làm sao con có thể biết được những điều huyền diệu sâu xa ẩn chứa trong các ngôi sao chứ? Ta không nói gì, con cũng càng không biết duyên cớ trong đó. Để ta nói cho con biết rồi con tự sẽ hiểu.
Vừa rồi ta quan sát thiên văn, nhìn thấy ngôi sao chiếu mệnh mình mờ tối, lại thêm đêm qua quan sát thấy sao Khách Tinh ở vị trí đế vị, sao Chủ không rõ, điều này dự báo cho việc thay đổi chủ mới. Lại thấy vượng khí chiếu thẳng xuống Thần Châu, ứng tại Quách Uy thừa kế thiên hạ. Cha của con vâng mệnh dẫn binh lên trước chống giặc, nào ngờ ông trời không cho, liền giáng xuống tai nạn, ta không thể tiêu diệt địch, âu cũng là ý trời”.
Trong lịch sử, cũng có nhiều nhà dự ngôn nổi tiếng đã lưu lại rất nhiều những dự ngôn tiên đoán tương lai như “Thôi bối đồ” của Lý Thuần Phong và Viên Thiên Cang, “Thiêu bính ca” của Lưu Bá Ôn. Những việc lớn của thế gian xảy ra sau khi họ qua đời đều rất chuẩn xác với những tiên đoán trong dự ngôn. Sở dĩ họ có thể dự đoán trước được là bởi vì họ tinh thông Tinh tượng học, Dịch học, thông qua thiên tượng, lịch số mà thôi đoán và suy diễn tương lai. Ngay ở Đại Việt cũng có Nguyễn Bỉnh Khiêm, nổi tiếng với Sấm Trạng Trình.
Trong lịch sử cũng có những ghi chép rất chi tiết về sự tương hợp của Thiên tượng và các sự kiện xảy ra tại nhân gian.
Buổi tối ngày 29 tháng 5, năm Khai Nguyên thứ 2, triều Đường, có ngôi sao băng lớn giống như cái hũ to, lại có cái lớn như cái chậu, xuyên qua sao Bắc Đẩu, rồi đều rơi xuống hướng Tây Bắc. Có rất nhiều những ngôi sao nhỏ cũng rơi xuống theo, toàn bộ các ngôi sao trên bầu trời đều chớp động, đến khi trời sáng mới dừng hẳn lại. Tháng 7 năm đó, Tương Vương chết, sau khi chết được đặt danh hiệu “Thương Đế”. Tháng 10 dân tộc Thổ Phiên tiến vào Lũng Hữu, cướp đoạt dê ngựa, vô số người chết và thương vong.
Tháng 6 năm đó, gió lớn khiến cây đại thụ và nhà cửa đều bị gió cuốn đổ, cây cối trên đường phố ở Trường An, thì cứ 10 cây lại có 7-8 cây bật cả gốc rễ. Ngay cả cây hòe mà tướng đứng đầu nhà Tùy là Cao Dĩnh trồng khi thành Trường An mới kiến thiết, có lẽ đã được hơn trăm năm cũng bị nhổ bật lên. Toàn bộ cây trúc ở núi Chung Nam khai hoa kết hạt phủ kín cả vùng sơn cốc, trông giống như những hạt lúa mạch.
Năm đó nhà Đường xảy ra mất mùa, những cây trúc cũng đều khô héo mà chết. Tương Khải thời Hậu Hán từng nói: “Khi những cây trúc trong cả nước đều khô héo, không quá ba năm, người chủ đất nước sẽ chết. Cây trúc của nhà ai kết trái mà chết khô, người gia trưởng sẽ chết.” Hết thảy những cây trúc trên núi Chung Nam nở hoa rồi khô héo và chết, quả nhiên năm Khai Nguyên thứ tư, Thái Thượng Hoàng của triều Đường băng hà.
Trong những năm Nghi Phụng của triều Đường, trên bầu trời có trường tinh chiếm cả nửa trời, xuất hiện ở phía đông, hơn 30 ngày mới mất hẳn. Bắt đầu từ lúc đó liền có dân tộc Thổ Phiên nổi dậy, dân tộc Hung Nô tạo phản, Từ Kính Nghiệp làm loạn, Bạch Thiết Dư phản nghịch, Bác Dự gây rối, dân tộc Khiết Đan vượt qua Doanh phủ, dân tộc Đột Quyết phá bỏ danh giới… Tổng cộng chết hơn một trăm vạn người, chiến tranh kéo dài suốt 30 năm không dứt.
Ngoài triều đại nhà Đường, sự biến hóa của thiên tượng dẫn đến biến hóa ở thế gian con người còn xuất hiện vào triều nhà Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Những hiện tượng này đều được các nhà Tinh tượng học bấy giờ ghi chép lại. Thuận theo sự biến hóa của thiên tượng, mỗi một triều đại đều phát sinh rất nhiều biến cố lịch sử.
Cổ nhân thực sự có thể quan sát thiên tượng mà biết trước được biến cố ở nhân gian. Đây vừa là trí tuệ, vừa thể hiện sự kính ngưỡng Trời, Đất, Thần linh, bởi vì “người đang làm, Trời đang nhìn”.
Nguồn: Cuocsong
- Trí huệ của người xưa: Nhìn vào nét chữ là có thể biết được họa phúc của một người ra sao
- Vì sao cần “tích đức”? giải thích bằng khoa học nhân thể
- Đại Y học gia Trung Hoa cổ đại và những phương pháp trị bệnh bí truyền