Những ngôn ngữ bí ẩn làm đau đầu các nhà khoa học

Ngôn ngữ được ví như một chiếc chìa khóa để thấu hiểu một nền văn hóa, là phương tiện để con người lưu truyền tư tưởng qua các thế hệ. Nhưng vì một lý do nào đó, có những ngôn ngữ bị thất lạc trong dòng chảy đằng đẵng của lịch sử.

Giải mã được những ngôn ngữ này luôn đem đến những điều thú vị nhưng cũng vô cùng khó khăn. 

Dưới đây là một số ngôn ngữ bí ẩn làm đau đầu các nhà khoa học:

Văn tự Indus
Từ lâu văn tự Indus kỳ bí đã hấp dẫn và làm đau đầu các nhà ngôn ngữ học và các nhà khảo cổ học. Giải mã được những ký tự này sẽ khai mở được ngôn ngữ của một nền văn minh tiên tiến tồn tại 4.000 năm trước đây tại thung lũng Indus, khu vực hiện nay là phía đông Pakistan và phía tây bắc Ấn Độ. Nền văn minh này có thể sánh ngang với nền văn minh Ai Cập hoặc Lưỡng Hà vào thời điểm đó, và hứa hẹn một lượng lớn di sản các kho báu nhân chủng học tầm cỡ.




Từ lâu văn tự Indus kỳ bí đã hấp dẫn và làm đau đầu các nhà ngôn ngữ học và các nhà khảo cổ học. (Wikimedia Commons)

Một số người cho rằng, đây không phải là một ngôn ngữ, và những “văn tự” đó chỉ đơn thuần là một loạt các biểu tượng giống như các biển báo giao thông hiện đại ngày nay. Số khác cho rằng, nó là một loại dạng thức cổ đại của tiếng Phạn hoặc có gốc rễ giống với hệ ngôn ngữ Dravidian (có liên hệ với các ngôn ngữ được dùng ở miền nam Ấn Độ ngày nay).

Chữ tượng hình Ai Cập đã được giải mã với sự hỗ trợ của phiến đá Rosetta, là một văn bản có ba phiên bản ngôn ngữ khác nhau, từ đó cung cấp một cơ sở để so sánh giữa ba hệ chữ cái. Chưa có tư liệu nào giống như vậy được tìm thấy đối với văn tự Indus.




Rajesh Rao, một nhà khoa học máy tính thuộc Trường Đại học Washington đã áp dụng các thuật toán máy tính vào những lĩnh vực vượt quá khả năng phân tích của con người. Ông đã cho chạy một vài ngôn ngữ qua một chương trình máy tính để phân tích các mô hình ký tự. Sau đó, ông cho chạy các đoạn văn tự Indus để phát hiện bất kỳ các mô hình tương tự.

Một số người cho rằng, đây không phải là một ngôn ngữ, và những “văn tự” đó chỉ đơn thuần là một loạt các biểu tượng giống như các biển báo giao thông hiện đại ngày nay. (Wikimedia Commons)

Máy tính không thể dịch thuật ngôn ngữ, nhưng nó có thể chỉ ra một hướng đi đúng. Nó giúp nhận diện các phần có thể ẩn tàng trong ngôn ngữ hội thoại bằng cách phân biệt giữa các mô hình. Lấy ví dụ, trong tiếng Anh, có một mô hình và tần suất nhất định của từ “và” (and) trong một đoạn văn bản. Cũng có các ngữ cảnh khác trong đó một số từ nhất định, như tên địa điểm, dễ được lặp lại sau một khoảng cách nhất định nào đó.




“Mặc dù chúng ta không thể đọc nó, nhưng chúng ta có thể nhìn vào các mô hình và nắm bắt được cấu trúc ngữ pháp đằng sau” – ông Rao trao đổi với tạp chí Wired. 

Hy vọng với sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo, văn tự Indus sẽ được giải mã và cho chúng ta biết về một nền văn minh tiên tiến từng hiện diện trên trái đất.

Ký tự Rongorongo của đảo Phục Sinh
Những ký tự viết trên các phiến gỗ được tìm thấy ở Đảo Phục Sinh đã làm bối rối các nhà ngôn ngữ học. Có vẻ như người dân Đảo Phục Sinh đã phát triển dạng chữ viết này chỉ sau khi tiếp xúc với những người Châu Âu vào năm 1770. Mặc dù họ có thể lấy ý tưởng cho bộ chữ này từ những người Tây Ban Nha, nhưng hình dáng của chúng không hề giống với bất kỳ loại ngôn ngữ nào được biết đến hiện nay.




Những ký tự viết trên các phiến gỗ được tìm thấy ở Đảo Phục Sinh đã làm bối rối các nhà ngôn ngữ học. (Wikimedia Commons)

Tộc người bản địa của Đảo Phục Sinh, người Rapanui, đã bị người Tây Ban Nha thúc ép phải ký vào các văn bản thôn tính viết tay. Trong một bài viết với tựa đề “Rongorongo: Văn tự của hòn đảo Phục Sinh”– nhà ngôn ngữ học Tiến sĩ Steven Roger Fischer, người đã nghiên cứu các văn tự này trong khoảng thời gian vài năm trở lại đây, đã nhận định rằng có vẻ như người Rapanui không có chữ viết trước đó. Chữ ký trên các văn bản của người Tây Ban Nha có vẻ như là bắt chước từ hệ chữ viết Châu Âu hơn là ký tự xuất xứ từ người bản địa.




Vào năm 1864, cư dân ngoại xứ đầu tiên của Đảo Phục Sinh, Joseph-Eugène Eyraud (1820–1868), là người đầu tiên từng chứng kiến các ký tự rongorongo. Nó được khắc lên các phiến gỗ ở mỗi nhà trên đảo, ông nói, mỗi phiến dường như đều có một ý nghĩa tâm linh. Vài năm sau, gần như tất cả các phiến gỗ đều đã biến mất. Tiến sĩ Fischer giải thích rằng, điều này có thể là vì dịch bệnh đậu mùa và các cuộc lùng sục để bắt giữ nô lệ đã làm sụt giảm dân số nơi đây.

Ngôn ngữ này được cho là sự kết tinh của chữ tượng hình (trong đó các biểu tượng biểu thị cho các khái niệm) và một bảng chữ cái ngữ âm. Fischer đưa ra giả thiết cho rằng các phiến gỗ này chứa các câu tụng kể lại về truyền thuyết khai sinh ra trời đất, mặc dù một số người vẫn còn khá hoài nghi.

Ngôn ngữ của bộ lạc đã biến mất được lưu giữ bởi… vẹt
Nhà thám hiểm thế kỷ thứ 19 Alexander von Humboldt đã tìm thấy một con vẹt ở Venezuela có khả năng cất lên những ngôn từ của người chủ cũ, những dấu vết cuối cùng của một ngôn ngữ bị thất lạc. 




Nhà thám hiểm thế kỷ thứ 19 Alexander von Humboldt đã tìm thấy một con vẹt ở Venezuela có khả năng cất lên những ngôn từ của người chủ cũ. (Pxhere)

Con vẹt này thuộc quyền sở hữu của một bộ lạc đã hoàn toàn xóa sổ bộ lạc Ature đối địch. Vì tất cả các thành viên của bộ lạc Ature đã chết, bộ lạc thắng lợi đã thu về rất nhiều chiến lợi phẩm, trong đó có con vẹt này. 

Humboldt đã ghi lại những lời con vẹt thốt ra, và đây là những vết tích cuối cùng còn sót lại của bộ lạc Ature, theo nhà văn, nhà báo Mark Forsyth trong quyển sách của ông “The Etymologicon”

Dĩ nhiên, với những vết tích vô cùng ít ỏi đó, các nhà khoa học không thể giải mã được gì. Mới đây, một họa sĩ hiện đại đã huấn luyện chú vẹt của mình nói ra những từ được Humboldt ghi lại để bảo tồn ngôn ngữ của bộ lạc Ature và đó là tất cả những gì có thể.




Kusunda: Ngôn ngữ biệt lập ở vùng hạ Himalaya
Với số dân giảm sút và diện tích rừng săn bắn giảm thiểu, người Kusunda đã bị ép buộc phải cưới người Nepal và những người từ các bộ lạc khác dẫn đến ngôn ngữ của họ dần dần bị biến mất.

Người cuối cùng nói thứ tiếng này được cho là đã qua đời vào năm 1985 gây khó khăn cho việc tìm hiểu thứ ngôn ngữ độc đáo này, cho tới khi ba người khác được phát hiện vào năm 2004. 

Nhà ngôn ngữ David E.Watters thuộc Đại học Tribhuvan ở Nepal ước lượng rằng tính đến năm 2005 chỉ còn sót lại khoảng 7 hay 8 người biết nói thứ tiếng biệt lập Kusunda. Watters đã làm việc với những người này để ghi âm lại tất cả những gì có thể về một loại ngôn ngữ đang có nguy cơ biến mất. Ông đã nhận thấy một số điểm khác biệt thú vị giữa tiếng Kusunda và tất cả các loại ngôn ngữ khác trong vùng.




Trong một bài viết có tựa đề “Những lưu ý về ngữ pháp của tiếng Kusunda”, ông cho rằng lịch sử của thứ tiếng này thậm chí đã có từ trước khi xuất hiện những người nói tiếng Tạng – Miến và tiếng Ấn – Aryan ở vùng hạ Himalaya. Lý do là các ngôn ngữ xuất hiện cùng thời hoặc sau các ngôn ngữ khác ở cùng một khu vực địa lý thường sẽ có sự giao thoa ngôn ngữ, trong khi tiếng Kusunda không hề có sự kết nối với bất kỳ ngôn ngữ nào được biết đến hiện nay nên rất khó sử dụng phương pháp đối chiếu, vốn là một phương pháp được sử dụng phổ biến trong việc tìm hiểu nguồn gốc ngôn ngữ. 

Tuy vậy, Watters nói: “Việc tiếng Kusunda vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay quả là một kỳ tích”.

Bản thảo Voynich, sau 600 năm giải mã chưa ai đọc hiểu được
Bản thảo Voynich được lưu giữ trong Thư viện Sách và Bản thảo quý hiếm của Beinecke (Yale, Mỹ). Bằng phương pháp xác định tuổi đồng vị cacbon, các nhà khoa học xác định được rằng cuốn sách được ra đời khoảng những năm 1420, cách nay hơn 6 thế kỷ. 





Những trang giấy giả da với dòng chữ viết tay lặp lại và hình vẽ bằng tay, những loài cây thật và tưởng tượng, những lâu đài trôi nổi, những người phụ nữ đang tắm, các biểu đồ chiêm tinh học, các vòng tròn cung hoàng đạo, mặt trăng và mặt trời cùng các khuôn mặt đi kèm chữ viết. Bản thảo Voynich có vẻ giống với một cuốn Bách khoa toàn thư về tự nhiên, vũ trụ và con người.

Bản thảo Voynich có vẻ giống với một cuốn Bách khoa toàn thư về tự nhiên, vũ trụ và con người. (Snappy Goat)

Nhiều năm qua với sự vào cuộc của hàng trăm nhà nghiên cứu ngôn ngữ, nhà khoa học, nhà mật mã, nhà toán học thậm chí cả nhà nghiên cứu thực vật học, … nhưng chưa ai có thể giải mã thành công bản thảo Voynich. Và cuốn sách dày 240 trang, khổ 24×16 cm này vẫn là một trong những bí ẩn lớn nhất lịch sử mà chưa có lời giải. 
Nguồn : NTDVN

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *