Trong một lần tình cờ, tiến sĩ người Anh Beckson đã gặp được một cụ già trên núi Linh Thứu, Ấn Độ. Sau này Beckson biết được rằng cụ già đó chính là Tôn giả Ca Diếp; người đã sống hơn 2.500 năm, nhờ mối duyên này mà ông đã quy y nơi cửa Phật.
Mối duyên kỳ lạ giữa vị tiến sĩ và người sống hơn 2.500 tuổi. (Ảnh minh họa qua Pinterest)
Vào một buổi sáng đầu thế kỷ 20, người ta thấy một vị hòa thượng phương Tây, thân hình cao lớn, mặc bộ tăng y màu vàng, bên ngoài khoác áo cà sa, tay cầm chiếc bát đen, đi chân trần, cử chỉ trang trọng, bước về phía tòa nhà tráng lệ của Hội nghiên cứu học thuật London.
Hôm đó là ngày đầu tiên hội nghị hàng năm của Hội nghiên cứu. Người có dáng vẻ hòa thượng Ấn Độ này chính là Tiến sĩ Beckson, đã biệt tích suốt 5 năm kể từ sau khi công bố ‘Triết học tân luận’. Ông gặp Tiến sĩ Madison và cả hai cùng vui vẻ bước về phía hội trường. Cả hội trường khi ấy đang yên ắng bỗng náo động hẳn lên bởi hơn 100 nhân sĩ nổi tiếng tham dự hội nghị đều là bạn của Beckson, chứng kiến cảnh tượng này họ không khỏi vui mừng.
Tiến sĩ Jim Saporte phấn khích nói: “Không ngờ được gặp lại tiến sĩ Beckson đã mất tích nhiều năm nay, nhất là nhìn khi thấy ông trong trang phục này, dường như đi ngược hẳn với quan điểm học thuật của ông mấy năm trước. Tôi đoán tất cả mọi người ở đây đều khao khát được biết những đổi thay của ông mấy năm nay, vậy mời ông kể cho chúng tôi tình hình sau khi biệt ly”. Nghe xong mọi người đều vỗ tay tán thành. Tiến sĩ Beckson thấy vậy thì cám ơn mọi người và bắt đầu kể về những năm tháng biệt tích của mình.
Hơn 100 nhân sĩ nổi tiếng tham dự hội nghị, toàn là bạn bè của Beckson, bỗng chốc vui mừng náo động cả hội trường. (Ảnh minh họa qua Pixabay)
Nhân duyên gặp gỡ người đã sống hơn 2.500 năm
Tiến sĩ Beckson kể rằng, trong khoảng thời gian ‘biệt tích’ ông đã đến Ấn Độ du lịch. Khi du lãm vào sâu núi Linh Thứu – Thánh địa Phật giáo thì bắt gặp một cụ già hiền từ.
Cụ già nói với ông: “Người Âu Mỹ các ông vô cùng kiêu ngạo, tự cho mình là dân tộc thượng đẳng, không coi ai ra gì, xem những người phương Đông như dân hạ đẳng chưa được khai hóa văn minh. Thực ra các ông sai rồi, chúng tôi có kho báu tinh thần khai mở trí huệ nhân loại vô hạn. Tôi có thể dẫn ông đến một nơi để ông mở rộng tầm mắt”.
Nghe vậy ông đã đi theo cụ già băng rừng vượt núi đến một nơi lạ lẫm… giống như đến một thế giới khác, hoa cỏ mọc khắp nơi, đua nhau nở rộ, từng làn hương thơm bay thấu vào trong lồng ngực, khiến cho con người ta có cảm giác tinh thần khoáng đạt vui vẻ.
Ở nơi sâu trong rừng rậm, thấp thoáng lộ ra kiến trúc cổ bằng đá cẩm thạch. “Cụ già dẫn tôi đến một nơi cất giữ sách, có mấy gian nhà lớn. Những sách đó có luận thiên văn, địa lý, toán học, có sách suy luận logic, luận Thiên Địa Nhân, tạo hóa vạn vật… nhưng nhiều nhất là thư tịch tôn giáo, đặc biệt Phật giáo.
Cụ nói: ‘Nếu ông muốn thì có thể sống ở đây một thời gian, mỗi ngày 3 bữa do ta cung cấp, chỉ có điều là đồ chay’.
Tôi đã ở đó hơn 1 năm, cứ luôn hỏi họ tên cụ, nhưng dù thế nào đi nữa cụ cũng không tiết lộ. Đến khi tôi từ biệt, cụ mới nói: ‘Nếu ông cảm thấy những thư tịch này có lợi ích, vậy thì đề nghị ông hãy hết sức thực hành. Khi ông đến trước Chùa Vàng ở Yangon Myanmar tự hứa nguyện, mặc trang phục sa môn và thực hành sa môn hạnh, trở thành đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, chúng ta sẽ có cơ hội gặp lại’.
Cụ già tiễn tôi xuống lưng chừng núi, tôi cúi xuống hái một đóa hoa rừng hiếm thấy, khi ngẩng đầu lên thì không thấy cụ đâu nữa. Kinh ngạc, tôi quay lại tìm tịnh xá mình đã ở hơn 1 năm qua nhưng nó cũng biến mất không còn dấu vết.
Thế là tôi đi đến đến Chùa Vàng ở Myanmar, quỳ trước tháp và thầm cầu nguyện: ‘Con là Beckson, từ ngày hôm nay con quyết tâm quy y Phật’. Hứa nguyện xong, tôi đến một ngôi chùa lớn khác ở Yangon, bái một vị trưởng lão làm thầy, xin ông xuống tóc cho tôi, dạy tôi giới luật, học tập thiền định.
Sau khi chia tay cụ già, Tiến sĩ Beckson đã đến chùa Vàng ở Yangon Myanma tự hứa nguyện, trở thành đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni. (Ảnh: wallpapers13.com)
Được khoảng 1 năm tôi lại thọ đại giới Tỳ kheo. Một hôm, khi tôi nhập định thì thấy cụ già năm đó… lúc đó cụ mới bảo tôi rằng, cụ là Tôn giả Ca Diếp, đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (người sống cách đây 2.500)”, Tiến sĩ Beckson nhớ lại.
Kết thúc câu chuyện, Tiến sĩ Beckson tiết lộ rằng việc ông đột nhiên trở lại Anh quốc là vì ông thấy Phật Pháp quá nhiệm màu, mang tới nhiều lợi ích cho con người thế gian nên “muốn đi các nước châu Âu hoằng dương Phật Pháp”.
Theo ghi chép của Kinh Phật thì 2.600 năm sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn, tức là thời điểm hiện nay, đệ tử của ngài là Đại Ca Diếp vẫn còn tại thế, chưa nhập niết bàn. Và Kê Túc Sơn ở Ấn Độ chính là nơi Tôn giả Ca Diếp đã nhập diệt.
Trong một số Kinh Điển Đại Thừa, các Tổ Trung Hoa đã dịch tên núi Linh Thứu ngày nay ở Ấn Độ là Kê Túc Sơn. Như vậy, có thể nói Kê Túc Sơn (nơi tôn giả Ca Diếp nhập diệt) và núi Linh Thứu (nơi Tiến sĩ Beckson đến thăm quan) là một. Điều này có thể lý giải cho việc Tiến sĩ Beckson gặp được Tôn giả Ca Diếp là hoàn toàn có thể.
Tôn giả Ca Diếp đến Kê Túc sơn chờ đợi chân Phật hạ thế
Truyền thuyết kể lại rằng, trước khi nhập niết bàn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã báo trước cho tín đồ của mình rằng 3.000 năm sau Pháp của Ngài sẽ không thể độ nhân được nữa. Và khi ấy Chuyển Luân Thánh Vương hay Phật Di Lặc sẽ hạ thế độ nhân.
Phật Thích Ca Mâu Ni nói: “Khi Hoa Ưu Đàm Bà La nở rộ khắp nơi thì đó chính là dấu hiệu báo rằng Thánh Vương đã tới…
Loài hoa này tại nhân gian 3.000 năm mới nở một lần, nhưng ở không gian khác, phải cần thời gian lâu hơn mới có thể khai nở. Cho dù ở đâu, gặp được Chuyển Luân Thánh Vương đều là sự tình phi thường thù thắng!”
Ưu Đàm Bà La, loài hoa 3.000 năm mới nở một lần, báo hiệu chân Phật đã hạ thế. (Ảnh: Hoauudam)
Làm đúng như căn dặn trong di ngôn của Phật Thích Ca Mâu Ni, Đại Ca Diếp đã chọn đến Kê Túc sơn (đây là ngọn núi khác Kê Túc Sơn tại Ấn Độ, nằm ở phía Tây Bắc cách huyện lỵ Tân Xuyên tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, hơn 50 dặm) cung kính chờ Phật Di Lặc hạ thế, để trao Phật y cho ngài. Một khi đã đưa Phật y thì sẽ thuận theo Phật Di Lặc, hoàn toàn buông tay, không quản tín ngưỡng Phật giáo ở nhân gian nữa.
Dự ngôn về thời mạt Pháp
Không chỉ trong Kinh Phật mà trong cuốn sách tiên tri ‘Cách Am Di Lục’ của Nam Sư Cổ (1509 -1571) tại Hàn Quốc cũng mô tả rằng, sau khi pháp của Thích Ca Mâu Ni được lưu truyền 3.000 năm, thế gian sẽ bước vào thời kỳ mạt Pháp, vào thời điểm này vua của các vị vua, nhân gian gọi ngài là Phật Di Lặc, Pháp Luân Thánh Vương hoặc Đại Thánh Vương sẽ xuống thế gian con người truyền Đại Pháp.
Trong ‘Thiêu Bính Ca’ của Lưu Bá Ôn có nói, Phật Di Lặc khi hạ thế cứu độ chúng sinh vào thời mạt Pháp sẽ không ở trong chùa miếu, không ở trong đạo quán (nơi các đạo sĩ tu luyện), cũng không giáng sinh vào hoàng cung, quan phủ mà là chuyển sinh vào một gia đình bình thường.
Phật Di Lặc (Chuyển Luân Thánh Vương) sẽ hạ thế chính pháp, và truyền bá, hồng truyền một pháp môn tu luyện xưa nay chưa từng có. (Ảnh qua NTDVN)
Pháp mà Phật Di Lặc truyền là quảng đại to lớn phi thường, cả Phật Đạo Thần ở trên trời cũng muốn được tu luyện theo Pháp này, nhưng để có thể tu luyện theo Pháp này thì phải bị tước bỏ quả vị, chuyển sinh thành người thường nơi thế gian.
Trong ‘Thôi Bi Đồ’, Lưu Bá Ôn có nói đến việc Phật Di Lặc từ biệt thiên đế hạ thế truyền chính Pháp. Lúc Phật Di Lặc từ biệt Thiên đế có nói: “Sau khi ta đi chỉ truyền tam tự tam Pháp (Pháp ba chữ) của mình, vạn Pháp ắt quy nhất, Pháp chính càn khôn, không lập nhân luân, không hồi thiên”.
Thiên tượng cảnh báo thế nhân
Trận sóng thần ập vào Nam Á vào cuối năm 2004, cũng như hiện tượng các bức tượng thánh trên thế giới chảy nước mắt và máu đã cảnh báo cho nhân loại rằng đại kiếp nạn có thể xảy ra trong tương lai.
Toàn thế giới đang diễn ra những hiện tượng kinh tâm động phách, thảm họa cũng trùng trùng ập đến. Cháy rừng, động đất, dịch bệnh xảy ra gần như cùng một lúc. Đến nay, đại dịch Covid-19 vẫn đang hoành hành, hủy diệt hàng triệu người dân trên thế giới và chưa có dấu hiệu dừng lại… Những thảm họa này dường như đang hiện thực những lời dự ngôn về kiếp nạn của con người.
Những thảm họa trùng trùng ập tới dường như đang hiện thực những lời dự ngôn về kiếp nạn của con người. (Ảnh tổng hợp)
Không những thế, hoa Ưu Đàm, loài hoa báo hiệu có chân Phật giáng hạ cứu độ thế nhân, cũng đã được khai nở khắp nơi trên thế giới.
Hoa Ưu Đàm Bà La được tìm thấy lần đầu tiên ở Hàn Quốc vào năm 1997. Sau đó xuất hiện ở Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Úc, Pháp và Hoa Kỳ. Nhiều năm gần đây người ta cũng đã tìm thấy hoa Ưu Đàm tại nhiều nơi của Việt Nam.
Trong kinh thánh, dù là Tân Ước hay Cựu Ước đều đã dự ngôn rằng, Sáng Thế Chủ Messiah sẽ giáng lâm vào thời khắc cuối cùng của nhân loại. Đấng cứu thế theo truyền thuyết tôn giáo của họ, trước khi đến thế gian con người, sẽ có một dấu hiệu chính để nhận biết, đó là người Do Thái Israel phục quốc.
Và như chúng ta đã biết, cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump vào tháng 12/2017 đã tuyên bố một cách chính thống, thừa nhận Jerusalem là thủ đô của Israel, chuyển Đại sứ quán Hoa Kỳ tới Jerusalem. Điều này đã đánh một dấu mốc cho công cuộc phục quốc thành công của người Do Thái.
Các dấu hiệu trên phải chăng là để khẳng định rằng Sáng Thế Chủ đã hạ thế? Nhưng làm sao để nhận ra ngài đây? Phật Thích Ca Mâu Ni tại Ấn Độ cổ từng nói: ‘Nhân thân nan đắc, Phật Pháp nan văn’. Nghĩa là thân người khó được, Phật Pháp khó nghe và khó đắc được. Hoa Ưu Đàm – loài hoa của Phật nhỏ bé đến mức mắt thường khó nhìn thấy được, phải chăng là điểm hóa rằng, nhận ra Chính Pháp, chân Phật không hề dễ dàng? Tuy vậy, nếu bạn giữ tâm thiện lương, một lòng hướng Phật thì Phật Pháp từ bi nhất định sẽ dẫn lối cho bạn tìm thấy chân Phật hạ thế.
Nguồn: SH
- Bí ẩn về người không trí nhớ: Bị giam cầm trong chính thời gian và tâm trí bản thân
- Thời gian và không gian trong tranh vẽ (P.1): Không gian có thể nhìn thấy
- Lý thuyết của Stephen Hawking sắp phá vỡ bí ẩn lớn nhất của giới khoa học?