Nam Cực là một vùng đất băng giá, khí hậu khắc nghiệt và rất giàu khoáng sản, nhưng con người không cách nào có thể mở rộng khai thác, tất cả đều có nguyên nhân thâm sâu ở trong đó.
Đô đốc, nhà bản đồ học người Thổ Nhĩ Kỳ, ông Piri Reis, và tấm bản đồ được vẽ năm 1513 của ông. Tấm bản đồ được vẽ trước khi phát hiện ra Nam Cực vào năm 1820 (Wikimedia Commons)
Tháng 1/1820, đại úy Mikhail Lazarev thuộc Hạm đội hoàng gia Nga đã khám phá lục địa mới này. Vào đầu thế kỷ 20, bộ Từ điển bách khoa nổi tiếng của Nga “Brockhaus and Efron” có ghi một đề mục về Nam Cực, theo đó lục địa này chưa được khảo sát đầy đủ và không có hệ động thực vật.
Tuy nhiên, người ta đã phát hiện một tấm bản đồ ra đời từ thế kỷ 16 vẽ lại chính xác bờ biển phía Bắc Nam Cực. Tác giả tấm bản đồ là đô đốc Piri Reis, thuộc hạm đội của đế quốc Ottoman. Người này tuyên bố rằng ông đã tham khảo từ một tấm bản đồ cổ hơn, thể hiện ranh giới châu Nam Cực trước khi bị bao phủ bởi băng tuyết.
Làm sao con người có thể biết rõ lục địa này ở thời điểm họ chưa hề có dụng cụ đo đạc hiện đại như ngày nay? Phải chăng một nền văn minh xa xưa đã làm điều đó? Vì sao Nam Cực lại lạnh và khắc nghiệt hơn Bắc Cực? Vì sao rất khó để con người có thể khai thác được nguồn tài nguyên phong phú nơi đây?
Sử dụng cách tiếp cận khác so với các nghiên cứu khoa học hiện nay, chúng ta hãy đến với câu chuyện của một người sở hữu công năng túc mệnh thông (nhìn được tương lai và quá khứ) để vén mở bức màn bí mật chưa có lời giải về Nam Cực và nền văn minh từng tồn tại ở nơi này.
Công năng túc mệnh thông vén bức màn bí ẩn về Nam Cực. Ảnh minh họa
Nền văn minh trên lục địa này từng trải qua những thời kỳ thịnh suy khác nhau. Trong nền văn minh gần đây nhất, khi nó lên đến đỉnh cao, có khoảng hai mươi quốc gia, hàng chục dân tộc khác nhau.
So với nền văn minh của nhân loại ngày nay, nền văn minh thời bấy giờ phát triển hơn rất nhiều. Vì chuẩn mực đạo đức của nhân loại thời ấy rất cao, người ta không cần tiêu hao nhiều sức lực để duy trì sự phát triển của xã hội.
Lấy ví dụ, khi người ta gieo trồng vụ mùa, một khi hạt giống được gieo xuống đất, họ không cần phải gieo lại trong ba hay năm năm tiếp theo. Trái cây trông rất to và giàu dinh dưỡng. Theo thuật ngữ ngày nay, ngũ cốc mà họ trồng là những loại thức ăn “hữu cơ”. Nếu chủ nhân mảnh đất trồng trọt phát sinh tư tâm hay ý niệm bất hảo, những điều xấu sẽ xảy đến với vụ mùa của họ, chẳng hạn như chúng khô héo rồi chết. Bất cứ ai thấy cảnh này đều biết rằng đây là lúc mà người chủ mảnh đất cần chú ý hơn nữa đến hành xử đạo đức của bản thân mình.
Mặc dù năng lượng mà họ sử dụng trong công nghiệp cũng từ than đá và dầu mỏ, nhưng công nghệ của họ cho phép tận dụng triệt để nguồn khoáng sản mà không gây ô nhiễm.
Cũng có sự khác biệt giữa các cá nhân. Có một khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. Tuy nhiên, khoảng cách này hoàn toàn khác với “khoảng cách giàu nghèo” ngày nay. Người bần cùng nhất vào thời đó không chỉ sở hữu rất nhiều của cải, mà họ còn có tiêu chuẩn đạo đức rất cao. Họ hài lòng với những gì mình có và không ganh tỵ với người giàu chút nào. Những người giàu, nói một cách tương đối, quan tâm rất nhiều đến người nghèo. Họ không bao giờ coi thường người khác. Về cơ bản, tình huống chung là như vậy.
Ở lục địa đó, có một vị quốc vương của quốc gia lớn nhất. Vị quốc vương này đặc biệt có năng lực cai trị đất nước, ông luôn biết cách chọn người hiền để làm các việc. Ông thường hướng nội và tự tìm kiếm những thiếu sót của chính mình. Ông cũng rất quan tâm đến dân chúng. Dần dần, đất nước của ông trở nên hùng mạnh nhất trên toàn cõi lục địa.
Nam Cực, nơi khí hậu lạnh giá và khắc nghiệt nhất thế giới.
Một ngày nọ, quốc vương cùng đoàn tùy tùng đi du ngoạn và quan sát điều kiện sinh sống của dân chúng. Họ đi lang thang trong thành. Vừa đi được một lúc, họ nghe nói rằng một vị tiên nhân đắc đạo sẽ tới đây và dạy người ta phương pháp chế tạo vật thể bay trên không trung.
Quốc vương hỏi đoàn tùy tùng: “Các ngươi có biết tại sao ta dẫn các ngươi ra ngoài không? Bởi vì ta muốn các ngươi nghe điều mà họ vừa nói. Đêm hôm trước, ta có giấc mộng rằng một vị tiên nhân sẽ tới đây để chỉ bảo ta cách cai trị đất nước một cách từ bi. Những điều chúng ta nghe được hôm nay chẳng phải tương hợp với giấc mộng của ta là gì.”
Quốc vương và đoàn tùy tùng tiếp tục rảo bước. Một lúc sau, họ cảm thấy đói và bước vào một tửu quán. Rượu vào thời đó khác hẳn với thứ rượu của chúng ta ngày nay. Thứ rượu đó không chỉ giúp giải khát mà còn có tác dụng giải trừ sự mệt mỏi; uống mãi mà không say.
Để tránh dân chúng nhận ra mình, quốc vương đeo một tấm mạng che mặt trước khi ông rời khỏi cung điện. Do quán rượu rất đông khách, quốc vương cùng đoàn tùy tùng ngồi trong một góc khuất. Họ gọi đồ ăn và bắt đầu ăn. Rồi có hai cô gái xinh đẹp bước vào. Họ trông giống như người ngoại quốc bởi vì cách phục sức của họ rất lạ.
Vì còn một chiếc bàn trống bên cạnh quốc vương, hai cô gái ngồi tại đó, gọi đồ ăn và tán gẫu. Quốc vương có thể nghe được những gì họ nói. Họ nói rằng họ tới vương quốc này để kiếm chồng và nói: “Ai cũng nói rằng dân chúng tại vương quốc này có tiêu chuẩn đạo đức rất cao, và đàn ông ở đây phẩm chất thật tuyệt vời.”
“Nếu ta không thể tìm được một tấm chồng lý tưởng, ta thà sống độc thân trong phần đời còn lại còn hơn là lấy một người không xứng đáng.”
“Này, ta nghe nói rằng một vị tiên nhân đang tới đây. Nếu ta có thể gặp người đó, ta sẽ rất hài lòng dẫu ta có sống độc thân suốt cuộc đời.”
Nghe cuộc trò chuyện của họ, quốc vương có nhiều cảm xúc đan xen lẫn lộn…
Sau bữa ăn, quốc vương cùng đoàn tùy tùng hồi cung. Hai ngày sau, có người báo rằng một người tự xưng là “tiên nhân đắc đạo” muốn bái kiến quốc vương. Quốc vương truyền chỉ cho nghênh tiếp người đó. Khi gặp mặt vị tiên nhân, quốc vương chào bằng nghi lễ trang nghiêm, đồng thời thỉnh vị tiên nhân chỉ giáo cho cách bay lên không trung.
Vị tiên nhân nói: “Kỳ thực, mọi người đều có khả năng bay lên được. Hiện tại quốc dân có chuẩn mực đạo đức rất cao, đồng thời phương tiện bay cũng đã khá tiên tiến rồi. Tuy nhiên, mọi người vẫn chưa thể giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Đối với một sinh mệnh, nếu có tiêu chuẩn đạo đức cao thì sẽ sống một cuộc đời hạnh phúc mà không nhiều đau khổ.
Nhưng họ không thể tận hưởng phúc mãi mãi được, tiêu chuẩn đạo đức của họ cũng không thể duy trì cao mãi mãi được. Hôm nay ta tới đây là để nói với quốc vương cùng thần dân rằng có rất nhiều phương pháp để thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Hôm nay ta sẽ truyền cho quốc vương một phương pháp.”
Rồi vị “tiên nhân” hiển hiện cho quốc vương xem hình tượng thật của mình, hình tượng của một vị Phật (Phật Thích Ca Mâu Ni). Do quốc vương có một căn cơ rất tốt nên ông lập tức nhớ lại một số nhân duyên kiếp trước của mình và tu luyện theo phương pháp của vị tiên nhân.
Nhân duyên trên đời đều đã có sự an bài từ trước đó, chỉ người tu luyện giác ngộ mới có thể nhín thấu được.
Quốc vương đã có công lao to lớn khi hoằng dương Phật Pháp, đồng thời ông cũng rất tinh tấn trong tu luyện. Trước khi lâm chung, vị tiên nhân đã nói với quốc vương rằng trong nền văn minh kế tiếp, ông sẽ lại trở thành đệ tử của Ngài và có tên là Mục Kiền Liên.
Sau 1.000 năm thịnh vượng, do chuẩn mực đạo đức không còn tốt nữa nên vương quốc bắt đầu suy tàn.
Vị quốc vương cuối cùng của vương quốc không còn tin vào Thần nữa mà còn bất kính với Thần. Ông cũng rất ích kỷ và hà khắc với dân chúng. Đây là thời điểm để chuyển sang một chương mới trong lịch sử.
Để lưu lại tài nguyên thiên nhiên cho chu kỳ văn minh tiếp theo và cũng để dạy cho nhân loại một bài học, ngay sau khi quốc vương bất kính với Thần lần thứ hai, đột nhiên mặt đất như nứt ra và bầu trời tưởng chừng như sắp sụp xuống. Một trận hồng thủy cao hàng chục mét đã ập vào bờ và hủy diệt mọi thứ. Ngoài ra, hơn mười núi lửa đồng thời phun trào kèm theo địa chấn dữ dội.
Ngay lập tức, nền văn minh hàng vạn năm lịch sử đã biến mất trong ngọn lửa giận dữ của mẹ thiên nhiên. Bản khối đại lục trôi nhanh về phương Nam. Từ trên bầu trời, những quặng khoáng sản rơi xuống như mưa. Đó là sự an bài của Thần để biến lục địa Nam Cực thành một kho bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.
Vì những tài nguyên này sẽ được nhân loại tương lai sử dụng nên chúng phải bị phong bế. Nếu dùng phương thức khác để phong bế thì nhân loại sẽ không thể khai thác được những tài nguyên này. Do vậy, Thần đã lợi dụng điều kiện khí hậu lạnh giá ở Nam Cực. Ngoài ra, Thần còn làm cho băng tuyết dày hơn và gió mạnh hơn ở Nam Cực.
Kết quả là, châu lục bị phong bế trong những lớp băng tuyết dày để khi thời gian tới, khi nhân loại phát hiện ra châu Nam Cực, dẫu nhân loại có biết về những tài nguyên này thì họ cũng không biết quá nhiều cho tới khi nhân loại khai thác những tài nguyên này vào đúng thời điểm. Cũng có nghĩa là, khi thời điểm chưa đến thì con người cũng không cách nào có thể động chạm tới nguồn tài nguyên nơi đây. Đó là nguyên nhân tại sao Nam Cực lạnh hơn Bắc Cực.
Tác giả: Tiểu Liên
Theo Zhengjian